Header Ads

Phương Trận


Tôi biết 2 nhóm từ “Phương Trận và Ma Trận” khi vào học chứng chỉ dự bị Toán Lý Hóa (MPC) của Đại Học Khoa Học, nếu tôi không nhớ sai thì đó là một bảng hình chữ nhật gồm những phần tử số thập phân sắp xếp thành hàng và cột ( phương trận và ma trận được sử dụng  trong Toán Giải Tích). Tuy nhiên nhóm chữ PHƯƠNG TRẬN dùng trong bài viết này không dính dáng gì đến “toán học” như nói ở trên.

Phương trận dùng trong bài viết này chỉ mang ý nghĩa “phương pháp được các tướng lãnh sử dụng trong một cuộc chiến” . Trong khi “chiến pháp” = phương pháp được các tướng lãnh sử dụng trong một trận chiến (một cuộc chiến bao gồm nhiều trận chiến).

Bài viết này có mục đích trình bày và phân tích PHƯƠNG TRẬN mà Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sử dụng trong cuộc chiến chống lại quân xâm lăng Mông Cổ trong thế kỷ 13.

Ông Ngô Đình Nhu trong tác phẩm CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM đã nhận định rằng quân Mông Cổ di động nhanh và tiến xa khỏi xứ sở của họ là nhờ họ đã phát minh được một chiến cụ quan trọng trong thời Trung Cổ, đó là cái yên ngựa. Thật vậy, chiến tranh đã có từ lâu, nhưng cỡi ngựa thì chỉ có cấp sĩ quan và tướng lãnh mới có ngựa, trong khi hàng hạ sĩ quan và binh lính thì đi bộ.Trong khi đó, nước Mông Cổ ít người, nhưng tất cả binh sĩ cho đến sĩ quan và tướng lãnh đều cỡi ngựa. Trên yên ngựa , họ chứa vũ khí như cung tên và đao kiếm, còn chứa cả lương thực và nước uống cũng như một số quần áo cá nhân. Đó là những thức tối cần thiết cho một cá nhân, rồi đi đến đâu, họ lấy thêm nước uống và lương thực của kẻ địch tiếp tục tiến về phía trước, không cần hệ thống tiếp liệu lôi thôi như các đoàn quân của bộ binh.

Năm 1257, tướng Ngột Lương Hợp Thai vâng lệnh vua Nguyên là Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Đại Lý (tỉnh Vân Nam ngày nay) rồi theo đường sông Thao, tỉnh Hưng Hóa, xuống đánh Thăng Long. Vua Trần Thái Tông sai tướng Trần Quốc Tuấn đem binh lên giữ ở phía Bắc. Tướng Trần Quốc Tuấn ít quân đánh không nổi, lui về đóng ở Sơn Tây. Quân Mông Cổ tiến đánh đuổi quân nhà Trần, Trần Thái Tông phải bỏ kinh đô chạy về đóng ở sông Thiên Mạc (huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên) – xem VNSL của Trần Trọng Kim , tập I trang 127.

Ít lâu sau, vì không quen thủy thổ, quân Mông Cổ bị bại trận đành phải rút lui về Trung Hoa. Tuy không thắng được quân Mông Cổ, tướng Trần Quốc Tuấn đã nhận ra những khuyết điểm và giới hạn của kỵ binh Mông Cổ :

Giới hạn thứ nhất: Xứ ta không có đồng cỏ nên kỵ binh Mông Cổ phải lệ thuộc vào sự tiếp tế cỏ từ các tỉnh phía Tây Bắc của Trung Hoa.

Giới hạn thứ hai: xứ ta là một xứ khí hậu nhiệt đới có nhiều mưa nên cả người và ngựa bị giảm sút hiệu năng chiến đấu vào mùa mưa.

Giới hạn thứ ba: đồng bằng sông Hồng là một vùng sình lầy nên không thuận tiện khi dàn đội hình kỵ binh lâm trận (Ngựa mà phải lội sình thì bộ binh di động nhanh hơn kỵ binh)

Giới hạn thứ tư: nước ta lại có nhiều sông nên kỵ binh muốn vượt sông mà không có cầu hoặc không có tàu bè để đem ngựa sang sông thì quá ư là trở ngại, do đó các tướng lãnh Mông Cổ không thể chọn lựa mục tiêu tấn công như họ đã làm tại chiến trường Tây Bắc Trung Hoa.

Quân Lực VNCH tôn vinh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là Thánh Tổ của Quân Chủng Hải Quân, nhiều người lầm tưởng là nhờ chiến thắng của trận Bạch Đằng Giang, nhưng thực tế không phải như vậy. Sau khi kỵ binh Mông Cổ của tướng Ngột Lương Hợp Thai phải rút về Trung Hoa vào năm 1258, tướng Trần Quốc Tuấn đã đệ trình kế hoạch thành lập thủy binh cho Thái Sư Trần Thủ Độ (Thái Sư là cấp bậc trong ngành hành chánh quan lại, thực tế Thái Sư Trần Thủ Độ giữ chức Tể Tướng = Thủ Tướng Chính Phủ và kiêm luôn chức vụ Thái Thượng Hoàng của vua Trần Thái Tông – là cháu gọi ông Trần Thủ Độ là chú). Sử gia Trần Trọng Kim cho rằng nhà Trần chú trọng về Thủy Quân và Hải Quân vì tổ tiên  của nhà Trần sinh nhai bằng nghề đánh cá. Tôi cho rằng lời nhận định của sử gia Trần Trọng Kim không có tính thuyết phục vì các lý do sau đây:

Lý do thứ nhất: khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1225 lúc mới 8 tuổi, mọi việc trong triều đều do Trần Thủ Độ quyết đoán, Thái Sư Trần Thủ Độ còn phải bận việc dẹp loạn và đánh tan các tướng cướp  cũng như các sứ quân hùng cứ khắp nơi , cho nên không có nhu cầu thành lập “thủy quân và hải quân”

Lý do thứ hai: Trần Thủ Độ đã có ý định soán đoạt ngôi nhà Lý, nên sắp xếp 2 cháu của mình lấy 2 chị em Thuận Thiên và Chiêu Hoàng (Lý Huệ Tông không có con trai). Sử không ghi tuối tác của Trần Liễu, chỉ ghi Trần Cảnh được Chiêu Hoàng nhường ngôi lúc mới 8 tuổi (tức là năm sinh của Trần Cảnh là năm 1217), nhưng căn cứ vào năm sinh của tướng Trần Quốc Tuấn là năm 1230 thì tôi đoán là Trần Liễu lớn tuổi hơn Trần Cảnh khá nhiều chứ không suýt soát tuổi như 2 chị em Thuận Thiên – Chiêu Hoàng. Trần Liễu bị Trần Thủ Độ xử ép nên uất ức nổi loạn, tuy nhiên Trần Thủ Độ không giết cháu mình, mà lại nâng đỡ hết mình cho con trai lớn của Trần Liễu là Trần Quốc Tuấn. Đó cũng là khi còn quá trẻ, lúc mới 27 tuổi, Trần Quốc Tuấn đã được  Thái Sư Tể Tướng Trần Thủ Độ đưa lên nắm giữ binh quyền.

Ghi chú của người viết: Con người ta có số mệnh, nếu Lý Huệ Tông truyền ngôi cho Thuận Thiên công chúa thì vị vua đầu tiên của nhà Trần sẽ là Trần Liễu chứ không phải là Trần Cảnh và đương nhiên người con trai lớn của Trần Liễu là Trần Quốc Tuấn sẽ là vị vua thứ nhì. Và nếu Chiêu Hoàng hoàng hậu có thai sinh được hoàng tử thì bà đã không bị truất phế, do đó Trần Liễu không bị mất vợ thì chưa chắc gì Trần Quốc Tuấn đã được Thái Sư Tể Tướng Trần Thủ Độ lưu tâm để ý giúp đỡ (tướng Lê Phụ Trần – phụ tá đắc lực của Thái Sư Tể Tướng Trần Thủ Độ trong việc đánh dẹp nội loạn, là sư phụ của tướng Trần Quốc Tuấn trong đời binh nghiệp) và Thái Sư Tể Tướng Trần Thủ Độ giao cho tướng Trần Quốc Tuấn chức vụ Tổng Tiết Chế (tương đương với chức Tổng Tham Mưu Trưởng thời hiện tại), nắm giữ binh quyền của nhà Trần. Âu cũng là điều may mắn cho nước Việt Nam chúng ta , vì trên lịch sử thế giới, chỉ có tướng Trần Quốc Tuấn mới đánh bại vua Hốt Tất Liệt tới 3 lần (Thoát Hoan là hàng con cháu, làm sao bì  được với vua cha Hốt Tất Liệt và tướng Trần Quốc Tuấn).

Lý do thứ ba: Là một tướng giỏi về chiến lược và tham mưu nên tướng Trần Quốc Tuấn thành lập Thủy Quân và Hải Quân để đối phó với kỵ binh của Mông Cổ. Thành lập Thủy Quân và Hải Quân đòi hỏi thời gian đóng tàu khá lâu và tốn vào ngân sách cũng như tài chính của quốc gia rất lớn. Đó là chưa kể chi phí huấn luyện cho binh sĩ sử dụng tàu thuyền nhuần nhuyễn và phải diễn tập kỹ thuật tác chiến trên sông trên biển rất tốn kém và mất thì giờ.

Lý do thứ tư: sau 12 năm chung sống, hoàng hậu Chiêu Hoàng bị Thái Sư Trần Thủ Độ truất phế vì không có bầu, đó là vào năm 1237 khi đó hoàng hậu mới 19 tuổi. Vợ của Trần Liễu là Thuận Thiên công chúa đang có bầu,  “ bị “ lên làm Hoàng Hậu cho vua Trần Thái Tông. Nhưng người con trai đầu lòng của Hoàng Hậu Thuận Thiên (tên là Quốc Khang) không được làm vua, mà người con trai thứ nhì là Thái Tử Hoảng mới làm vua tức là Trần Thánh Tông. Các chi tiết vừa nêu được ghi trong Trần Triều Thế Phổ do sử gia Trần Trọng Kim biên soạn cũng chứng tỏ rằng tướng Trần Quốc Tuấn vừa là vai anh con ông bác của Trần Thánh Tông, vừa là người lớn tuổi hơn và cũng là người có kinh nghiệm chiến trận vượt xa các ông vua vai em cháu như Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông. Bởi vậy, ý kiến của tướng Trần Quốc Tuấn trong triều đình nhà Trần rất có trọng lượng : ông chuẩn bị rất kỹ cho cuộc đón tiếp Thái Tử Thoát Hoan vào năm 1284 (tính từ 1257 đến 1284, tướng Trần Quốc Tuấn có tới 27 năm để chuẩn bị). Các em của vua Trần Thánh Tông như Thái Sư Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, tôn thất nhà Trần  như tướng Trần Bình Trọng, tướng Trần Khánh Dư…đều được lệnh rèn luyện binh mã và thành lập các đơn vị chiến đấu có quy củ, cho nên đã trở thành các danh tướng trong lịch sử chiến tranh với quân Mông Cổ sau này.

Lý do thứ năm: nước ta không có nhiều ngựa cho nên tướng Trần Quốc Tuấn chuyển quân  bằng  thuyền lớn di chuyển trên sông nhanh hơn rất nhiều nếu so với bộ binh của nhà Trần di chuyển bằng chân. Binh sĩ của tướng Trần Quốc Tuấn chỉ có 20 vạn ( VNSL quyển I –trang 137 ) ít hơn 500,000 quân của Thoát Hoan, nhưng nhờ di chuyển nhanh hơn nên có thể tấn công quân Mông Cổ vào bất cứ mục tiêu nào mà tướng Trần Quốc Tuấn muốn. Đó cũng là ý nghĩa của câu trả lời : “Binh cốt tinh nhuệ không cốt ở số lượng” khi các tổng trấn các nơi xin tướng Trần Quốc Tuấn tuyển mộ thêm quân.

Lý do thứ sáu: vì sử dụng thủy binh vào công tác chuyển vận binh sĩ cho nên các tướng của nhà Trần đều đóng quân tại những địa điểm mà bây giờ chúng ta gọi là “căn cứ thủy bộ”. Nghĩa là nơi để đổ bộ tiến quân hay là nơi tập kết binh sĩ để di chuyển qua mục tiêu khác. Quân đội nhà Tống, quân đội của nước Nga cũng như một số nước vùng Trung Á đều thảm bại trước đà tiến quân của kỵ binh Mông Cổ vì kỵ binh của Mông Cố có thể tỏa ra tấn công cả 4 mặt vào một thành trì nào đó (do bộ binh trấn giữ), nhưng với “căn cứ thủy bộ”, quân Mông Cổ chỉ có thể tấn công mặt trước của căn cứ mà thôi, mặt sau là sông và 2 bên trái -  phải của căn cứ là bờ sông nên kỵ binh trở nên “bất khiển dụng”. Suy ra, phòng ngự tại căn cứ thủy bộ dễ hơn là phòng thủ một thành trì được xây dựng trên vùng đồng bằng khô cạn.

Thoát Hoan tiến quân vào nước ta vào tháng chạp năm Giáp Thân (1284) nhưng 6 tháng sau – tháng 6 năm Ất Dậu (1285) phải bỏ chạy về Tàu với những trận thua tại Bến Hàm Tử, thua tại bến Chương Dương và thua tại trận Tây Kết (trận này Toa Đô trúng tên bị tử trận và Ô Mã Nhi phải trốn xuống một chiếc thuyền nhỏ bơi vế Tàu). Lần này lui quân bằng đường bộ, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tên mà quân nhà Trần bắn ra như mưa. Ghi nhận rằng đại binh của Thoát Hoan vẫn chưa khai thông được con đường tiếp tế lương thực cho người và tiếp tế cỏ khô cho ngựa bằng ngả đường bộ đi qua tỉnh Lạng Sơn.

Lần thứ hai, Thoát Hoan tiến quân vào nước ta vào tháng 2 năm Đinh Hợi (1287), lần này tiếp tế lương thực và cỏ khô bằng đường biển do Trương Văn Hổ phụ trách. Tuy nhiên tướng Trần Khánh Dư đã chiến thắng Trương Văn Hổ ngay tại Bến Vân Đồn khiến rất nhiều lương thực và khí giới bị tướng Trần Khánh Dư tịch thâu.

Đã có rất nhiều sử gia, nhà khảo cổ và các nhà nghiên cứu trình bày những khám phá mà họ đã và đang tìm thấy trong khi khai quật chiến trường Bạch Đằng Giang của thế kỷ 13. Tuy nhiên theo nhận định riêng của người viết bài này, đã có rất nhiều ngộ nhận và suy đoán sai lầm về vai trò của tướng Trần Quốc Tuấn về trận Bạch Đằng Giang. Điển hình như sử gia Trần Trọng Kim đã viết:

Trích dẫn – Hưng Đạo Vương biết mưu ấy, bèn sai Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua đường tắt lên mé sông thượng lưu sông Bạch Đằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giữa giòng sông, rồi phục binh  chờ đến lúc nào thủy triều lên thì đem binh ra khiêu chiến, nhử cho thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào nước thủy triều xuống thì quay lại hết sức mà đánh. – Hết trích (VNSL quyển Một, trang 156)

Thủy Sư Đô Đốc Togo – người đã đánh tan hạm đội của Nga Hoàng hồi 1905 tại eo biển Đối Mã nhận định rằng:

  1. Tướng Trần Quốc Tuấn đã chuẩn bị trận địa Bạch Đằng Giang trước khi Thoát Hoan kéo binh qua Việt Nam.
  2. Số nhân công và binh sĩ đóng cọc  phục vụ cho trận địa Bạch Đằng Giang phải lên tới hàng ngàn, cho nên không thể thực hiện công trình này trong khi quân đội 2 bên đang lâm chiến.
  3. Số người đi lại đông như vậy thì không thể che mắt được tướng Ô Mã  Nhi và quân thám báo của ông ta, đã để tướng Ô Mã Nhi chú ý thì không cách gì dụ được thủy quân Mông Cổ lọt vào bẫy.
Các nhà khảo cổ đã minh định được các cọc gỗ xuất xứ từ 3 loại gỗ khác nhau: gỗ gụ, gỗ bưởi và gỗ lim với 3 đường kính khác nhau 5cm, 13cm và 20cm. Căn cứ vào sinh cảnh thực vật của bộ môn Entomology (tạm dịch là sinh thái môi trường thực vật), 3 loại cây này không thể mọc ở vùng cửa sông có phù sa bồi đắp quanh năm, nhất là gỗ gụ và gỗ lim với đường kính 20cm thì phải là những cây có tuổi từ 25 năm trở lên. Suy ra những cây cọc cắm trên vùng sông Bạch Đằng phải đem từ nơi xa đến và tướng Nguyễn Khoái đang thi hành phận sự ngăn chặn thủy quân Mông Cổ thì làm gì có đủ nhân sự và thì giờ để đóng cọc gỗ.

Tài năng và đức độ của tướng Trần Quốc Tuấn quá siêu việt, ông được người Việt Nam đương thời và con cháu của ông nhiều đời về sau tôn kính và dành cho ông một vị trí danh dự trong lịch sử Việt Nam. Tại quê hương của ông, làng Vạn Kiếp tỉnh Hải Dương, sau khi ông qua đời, dân chúng đã lập đền thờ và tôn xưng tướng Trần Quốc Tuấn là THÁNH TRẦN. Hàng năm, đến ngày giỗ của ông 20 tháng 8 âm lịch, dân chúng khắp nơi kéo về Vạn Kiếp lễ bái tấp nập, họ coi ông như một vị thần linh thiêng bảo vệ đất nước Việt Nam và dân chúng Việt như hồi ông còn sinh tiền.

Dân chúng bình dân tôn xưng THÁNH TRẦN cũng đồng nghĩa với việc coi tướng Trần Quốc Tuấn không còn là người thường, mà họ coi ông mang nhiều tính cách thần bí và huyễn hoặc. Bây giờ  đã là đầu thế kỷ 21 thì không thể mang tính chất thần bí  áp đặt vào con người thực của tướng Trần Quốc Tuấn được nữa, vì khi đã mang tính chất thần bí thì chúng ta không rút tỉa được bài học nào cả.

Tài năng và đức độ của tướng Trần Quốc Tuấn xuất xứ từ sự giáo dục, ông được giáo dục để trở thành nhà LÃNH ĐẠO của đất nước, cho nên ông không đặt nặng vấn đề cha của ông (An Sinh Vương Trần Liễu) dặn dò phải đoạt ngôi vua, ông đã đem tài năng của ông điều khiển  nhân sự của nhà Trần để đánh đuổi quân xâm lăng nguy hiểm và to lớn hơn nước Việt gấp hàng chục lần. Lên làm vua thì được hưởng lợi lộc gì khi chủ quyền quốc gia bị tước đoạt, dân chúng điêu linh sống triền miên trong kiếp nô lệ…

Một câu hỏi từ thế kỷ 13 đến nay vẫn còn có người hỏi: dất nước Việt Nam thì quá nhỏ bé so với Trung Hoa, số lượng dân chúng Việt Nam là phân số 1/20 nếu so sánh với dân số Trung Hoa, thì làm sao chúng ta có thể tồn tại trước sự xâm lần một cách lộ liễu liên tục và có hệ thống của chính quyền Trung Hoa? Vua tôi nhà Trần trong thế kỷ 13 đã 3 lần đánh tan đạo quân xâm lược Mông Cổ khét tiếng trên thế giới, đã là một bài học hùng hồn cho dân tộc Việt: hãy xây dựng và đào luyện một lực lượng trí thức chuẩn bị để LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC (xin đừng lầm lộn “lãnh đạo đất nước” với “cai trị đất nước”). Chính trong những  trí thức lãnh đạo đất nước sẽ nẩy sinh ra những sáng kiến độc đáo để hóa giải những âm mưu hung hiểm của kẻ thù phương Bắc như danh tướng Trần Quốc Tuấn đã làm hồi thế kỷ 13.

Một đất nước mà thành phần “cai trị đất nước” coi trí thức  chỉ giá trị không hơn một cục phân, luôn luôn hô háo khẩu hiệu

 “TRÍ, PHÚ , ĐỊA, HÀO
   ĐÀO TẬN GỐC, TRỐC TẬN RỄ “

thì con đường bị diệt vong là điều tất yếu, vấn đề chỉ còn là lâu hay mau mà thôi.

Trần Trung Chính
San José ngày 19 tháng 6 năm 2016
Kỷ Niệm NGÀY QUÂN LỰC thứ 41

Powered by Blogger.