Header Ads

Karl Marx (1818 - 1883) và Tác Phẩm Tư Bản Luận


Karl Marx qua đời trong thành phố London vào ngày 14/3/1883. Chỉ có 8 người tham dự đám tang của danh nhân này tại nghĩa trang Highgate, gồm cả người vợ và 2 người con. Trong bài điếu văn đọc trước ngôi mộ của Karl Marx, Friedrick Engels là người bạn thân nhất, người cộng tác lâu năm và cũng là một môn đệ của Karl Marx, đã tóm tắt rằng “Trên hết, Marx là một nhà cách mạng và chủ đích chính trong cuộc đời của ông là lật đổ xã hội tư bản cùng các định chế do chế độ này lập nên”.

Karl Marx đã trưởng thành trong một thời kỳ hỗn loạn, giữa các cuộc cách mạng đang diễn ra tại châu Âu vào năm 1848. Tại nước Ý có các cuộc nổi dậy đòi dân chủ, tại nước Pháp chế độ quân chủ bị tiêu diệt, đồng thời người dân Hung đang đấu tranh đòi tự do và độc lập khỏi nền cai trị của người Áo. Tại nước Đức, thể chế tiền đại nghị (pre-parliamentary) được thiết lập trong khi đó nội chiến tàn phá nước Thụy Sĩ và thành phố Prague là trung tâm của các hỗn loạn do việc thành lập liên minh thuần Slav (a pan-slavic alliance) còn tại nước Anh, phong trào đòi dân chủ Chartism đang đe dọa lật đổ chính quyền.

Người dân châu Âu vào thời kỳ này đòi hỏi các chính quyền và xã hội phải giảm bớt các lạm dụng xấu xa gây nên do cuộc kỹ nghệ hóa, đòi hỏi hủy bỏ các tàn tích phong kiến. Đây là giai đoạn rất thích hợp cho các tư tưởng lật đổ, cấp tiến, và Karl Marx đã quan sát cuộc Cách Mạng Pháp năm 1848, đã coi Công Xã Paris (the Paris Commune) diễn ra vào năm 1871 là một kiểu mẫu của xã hội vô sản.

1/ Cuộc đời của Karl Marx.

Karl Heindrich Marx chào đời vào ngày 5/5/1818 tại Trier trong miền sông Rhine, thuộc nước Phổ (Prussia). Ông nội của Karl là một giáo sĩ Do Thái (rabbi). Cha của Karl là một luật sư giàu có, cả hai phía cha và mẹ của Karl Marx đều thuộc dòng dõi Do Thái nhưng khi Karl tới tuổi thiếu niên thì cả gia đình này chuyển sang đạo Thiên Chúa vì các lý do thương mại và xã hội. Có lẽ do mặc cảm về nguồn gốc này mà về sau, Karl Marx đã chống lại đạo Do Thái.

Vào năm 1835, Karl Marx theo học Luật Khoa tại trường Đại Học Bonn rồi qua năm sau, đổi sang Đại Học Berlin. Trong thời gian sống tại Berlin, Karl Marx rất ưa thích môn Triết Học (philosophy), có cơ hội đọc triết thuyết của Wilhelm Friedrich Hegel. Tại nước Phổ vào giai đoạn này, Triết Học là một môn học nghiêng về chính trị trong khi bên ngoài xã hội, người công dân không được phép tham dự vào các công quyền (public affairs). Karl Marx đã tham gia vào nhóm các sinh viên và giáo sư cấp tiến, thiên về phe tả, thường hay chỉ trích gay gắt cách quản trị xã hội của chính quyền nước Phổ.

Karl Marx tốt nghiệp Tiến Sĩ Triết Học tại Đại Học Jena vào năm 1841, có ước vọng trở nên một giáo sư đại học nhưng vì các tư tưởng chống đối chính quyền nên đã gặp nhiều thất bại. Karl Marx quay sang ngành báo chí, đã viết nhiều bài theo đường lối cấp tiến cho nhiều nhật báo trong đó có tạp chí Sông Rhine (the Rheinische Zeitung), khởi đầu xuất bản vào năm 1842.

Năm 1843, Karl Marx lập gia đình với cô Jenny von Westphalen, một thiếu nữ trẻ đẹp, con gái của một sĩ quan Phổ, dù cho cả hai gia đình đều không bằng lòng trước cuộc hôn nhân này. Các tư tưởng cấp tiến, các bài viết có tính công kích chính quyền của Karl Marx đã bị kiểm duyệt, người viết bị theo dõi rồi để tránh bị bắt giam, Marx cùng với vợ chạy qua thành phố Paris. Tại nơi này, Karl Marx gặp Friedrich Engels, một người cấp tiến khác gốc Đức, cả hai người trở nên bạn thân, cộng tác với nhau qua nhiều bài viết. Engels là một người tương đối giàu, con trai của một chủ nhân xưởng dệt, lại có tư tưởng xã hội cấp tiến giống như Karl Marx. Nền móng của tác phẩm sau này “Tư Bản Luận” (Das Kapital) bắt nguồn từ cuốn sách của Friedrich Engels có tên là “Tình trạng của các giới lao động tại nước Anh” (Conditions of the Working Classes in England).

Các bài viết có tính cách xúi giục nổi loạn của Karl Marx chống lại chính quyền Đức đã khiến cho chính quyền này vận động với nước Pháp trục xuất Marx ra khỏi thành phố Paris vào năm 1845. Marx qua Brussels, nước Bỉ, trú ngụ trong ba năm rồi trở về nước Đức, làm chủ nhiệm tạp chí Sông Rhine Mới (the Neue Rheinische Zeitung), xuất bản tại Cologne. Qua tạp chí này, Karl Marx nổi tiếng là một người phát ngôn của đường lối cải tổ dân chủ cấp tiến.

Sau cuộc cách mạng năm 1848 thất bại tại nước Đức, Karl Marx phải bỏ chạy qua Paris. Vào năm này, Marx đã cộng tác với Friedrich Engels, viết ra Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản (The Communist Manifesto), một văn bản cấp tiến nhất, kêu gọi bạo lực và gây nên nhiều ảnh hưởng sâu đậm về sau: “Các người Cộng Sản cho rằng không cần phải che giấu các quan điểm và ý định. Họ tuyên bố công khai rằng mục đích của họ chỉ được thực hiện do cuộc lật đổ bằng bạo lực toàn thể trật tự xã hội đương thời. Trước Cuộc Cách Mạng Cộng Sản này, các giai cấp cai trị phải run sợ. Các công nhân không bị mất mát gì cả ngoài gông cùm. Họ có cả một thế giới để chiếm đoạt. Hỡi các Công Nhân của Thế Giới, hãy đoàn kết lại!”

Karl Marx là một người học rộng nhưng mang thành kiến và tự kiêu, ông ta được nhiều người ngưỡng mộ nhưng có ít bạn bè và rất nhiều kẻ thù.
Vào các năm 1848 - 49, các cuộc cách mạng tại châu Âu đã không thành công, những kẻ xúi giục nổi loạn bị truy lùng, Karl Marx vì vậy phải bỏ chạy qua thành phố London vào mùa hè năm 1849. Từ tuổi 31, Marx đã trải qua phần còn lại của cuộc đời trong cảnh túng thiếu. Karl Marx có 6 người con, ba đứa bị chết yểu, hai trong số còn lại sau này đã tự sát. Trong cảnh sống cơ cực, Karl Marx đã được Friedrich Engels trợ giúp cho khỏi chết đói bởi vì lợi tức của Marx chỉ là một món tiền rất nhỏ nhờ các bài viết cho tờ báo New York Tribune, mô tả các sự việc xẩy ra tại châu Âu. Do hoàn cảnh sống quá eo hẹp và bất mãn này mà các bài viết của Karl Marx thường bộc lộ lòng hận thù, cay đắng. Karl Marx là một người học rộng nhưng mang thành kiến và tự kiêu, ông ta được nhiều người ngưỡng mộ nhưng có ít bạn bè và rất nhiều kẻ thù.
Cả hai Karl Marx và Engels đều coi cuốn “Tư Bản Luận” là “cuốn sách bị nguyền rủa” (the damned book) bởi vì nó sẽ mang lại một “cơn ác mộng”.

Mặc dù thường bị đau yếu vì bệnh tật và sống trong cảnh nghèo túng trong khu vực Soho buồn tẻ của thành phố London, mỗi ngày Karl Marx thường ra Viện Bảo Tàng Anh Quốc (the British Museum) tìm kiếm tài liệu để viết nên một tác phẩm có tên là “Tư Bản Luận” (Das Kapital). Cuốn sách này đã được soạn thảo trong 18 năm trường, đôi khi bị ngưng lại vì các lần đau bệnh hay vì vài hoạt động khác của tác giả. Friedried Engels rất lo lắng cho tác phẩm này, e sợ nó bị dở dang. Engels đã nói “ngày mà cuốn sách được đưa in, tôi phải uống rượu thật say để chúc mừng”. Cả hai Karl Marx và Engels đều coi cuốn “Tư Bản Luận” là “cuốn sách bị nguyền rủa” (the damned book) bởi vì nó sẽ mang lại một “cơn ác mộng”.

Trong đời sống lưu vong của Karl Marx tại thành phố London, có một biến cố quan trọng khác, đó là việc thành lập vào năm 1864 Hiệp Hội Các Công Nhân Quốc Tế (the International Working Men’s Association) được mọi người sau này gọi là Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Nhất (the First International). Đây là một tổ chức cố gắng kết hợp các giới lao động trên thế giới. Karl Marx là người đứng đằng sau sân khấu, đã soạn ra các tài liệu, nguyên tắc, chương trình, các bài diễn văn... nhưng về sau các vụ cãi cọ nội bộ, tranh giành quyền chỉ huy... đã khiến cho tổ chức này bị giải tán sau cuộc sụp đổ của Công Xã Paris vào năm 1871. Tổ chức công nhân quốc tế này lại được các nhà xã hội châu Âu tiếp tục bằng Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Hai (the Second International) rồi về sau bằng Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Ba (the Third International) hay Tổ Chức Comintern, do các người Cộng Sản trên toàn thế giới.

Karl Marx đã chuẩn bị cuốn “Tư Bản Luận” trong rất nhiều năm, rồi vào cuối năm 1866, toàn thể bản thảo của cuốn sách này được gửi sang Hamburg và vào mùa thu năm sau, cuốn sách ra đời. Cuốn “Tư Bản Luận” được viết bằng tiếng Đức, bản dịch đầu tiên sang ngoại ngữ khác là ấn bản tiếng Nga năm 1872 rồi tới năm 1886 mới có ấn bản tiếng Anh. Vào thời đại của Karl Marx, nước Anh là nơi tượng trưng cho chế độ tư bản đang phát triển. Các lý thuyết kinh tế của Karl Marx đều dược rút ra do việc quan sát sinh hoạt của nước Anh này. Tại nước Anh vào thời đại Victoria, xã hội chứa đầy bất công, nhiều hoàn cảnh xấu xa.

Căn cứ vào các báo cáo chính thức của các nhân viên thanh tra trong chính quyền Anh, Marx đã trình bày các sự kiện xã hội một cách xác thực trong cuốn Tư Bản Luận theo đó đàn bà bị thuần hóa như các con vật, phải kéo các con thuyền dọc theo sông đào, kéo các toa xe nặng chở đầy than đá trong hầm mỏ. Trẻ em tại nước Anh bắt đầu làm việc trong các xưởng dệt vải len từ khi lên 9 hay 10 tuổi và phải lao động cực nhọc mỗi ngày từ 12 tới 15 giờ. Từ khi áp dụng ca đêm, các giường nằm của trẻ em không bao giờ lạnh cả bởi vì chúng thay nhau ngủ theo ca! Bệnh lao phổi và các bệnh nghề nghiệp khác đã giết trẻ em theo một mức độ cao. Việc phản đối các điều kiện làm việc hết sức tồi tệ kể trên không chỉ giới hạn vào Karl Marx. Những nhân vật có lòng nhân đạo như Charles Dickens, John Ruskin và Thomas Carlyle đã viết ra nhiều tác phẩm văn chương với nội dung phơi bày các bất công xã hội và đòi hỏi các cải tổ. Quốc Hội Anh cũng đặt ra các đạo luật sửa chữa.

Karl Marx rất hãnh diện về cách tiếp cận các vấn đề kinh tế và xã hội một cách khoa học. Engels nói rằng: “Giống như Darwin đã khám phá ra định luật Tiến Hóa trong bản chất hữu cơ, Marx đã tìm ra định luật Tiến Hóa trong lịch sử con người”. Karl Marx xác nhận rằng: “các hiện tượng kinh tế có thể quan sát và ghi lại với độ chính xác giống như khoa học tự nhiên”. Thông thường Karl Marx hay dẫn chứng các công trình của các nhà sinh học, hóa học và vật lý. Rõ ràng là Karl Marx mong muốn trở nên một nhân vật danh tiếng về xã hội và kinh tế giống như Darwin và Newton. Do cách phân tích xã hội theo khoa học, Karl Marx tin rằng mình đã khám phá ra cách thay đổi từ thế giới tư bản sang thế giới xã hội chủ nghĩa (a socialistic world).

2/ Tác phẩm Tư Bản Luận.

Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản bắt đầu bằng lời xác nhận rằng Lịch Sử của Nhân Loại là “lịch sử của đấu tranh giai cấp” (history of class struggle). Chính sự tranh chấp giữa các giai cấp đã gây nên các hoạt động của xã hội. Trong thời đại La Mã, đã có các giai cấp quý tộc, hạ lưu và nô lệ. Tới thời Trung Cổ của châu Âu, các giai tầng là hầu tước, kẻ bộ hạ, giới chủ nhân nghề nghiệp (guild-master), các kẻ học nghề và giới nông nô (serf). Sang thế kỷ 19, đã có các tranh chấp giữa giới tư sản (the bourgeoisie) với đa số thuộc giai cấp trung lưu thành thị mới, sở hữu các cơ xưởng sản xuất, và giới vô sản (the proletariat) gồm các công nhân làm việc cho các kỹ nghệ sản xuất.

Marx và Engels đã mô tả sự phát triển của giới tư sản là do giới này đã nắm được quyền lực chính trị cùng với sức mạnh kinh tế nhờ vào nền kỹ nghệ sản xuất. Do bành trướng thị trường, giới tư sản đã thiết lập được các mạng lưới mậu dịch nhờ đó mang về các nguyên liệu rẻ tiền đồng thời giới tư sản này xiết chặt quyền kiểm soát tư bản, các phương tiện sản xuất và trao đổi. Sự bành trướng kỹ nghệ đã khiến cho giai cấp công nhân vô sản gia tăng, họ là những người giỏi làm việc hay không có tay nghề, và gồm cả các phụ nữ. Một số người thuộc tầng lớp thấp kém của giai cấp tư sản cũng dần dần tham gia vào giai cấp vô sản đang lớn mạnh này.

Theo Marx và Engels, trước các bóc lột, giới vô sản sẽ tham gia vào các nghiệp đoàn để đòi hỏi tăng lương. Các vụ rối loạn đôi khi xẩy ra, nghiệp đoàn có khi bị coi là bất hợp pháp nhưng các công nhân dần dần đoàn kết lại, để chống lại các kẻ đàn áp. Sẽ có một cuộc cách mạng, chế độ mới được gọi là “cộng sản”, sẽ kiểm soát chính quyền vì quyền lợi của giới vô sản. Trong xã hội cộng sản này, quyền tư hữu sẽ bị bãi bỏ, các nhà máy và các phương tiện sản xuất sẽ thuộc về Nhà Nước (state). Nhà Nước kiểm soát ngân hàng, nền kinh tế, các phương tiện giao thông và truyền thông. Nhà Nước chăm lo công việc giáo dục. Sẽ có thuế nặng để chi trả các chi phí nhưng mục đích của các hoạt động xã hội là sự an lạc của giai cấp lao động, giai cấp này lớn mạnh dần khiến cho sẽ không còn sự phân biệt giai cấp nữa và mọi người sẽ “làm việc theo năng lực, hưởng thụ theo nhu cầu”.

Những lời tiên đoán của Marx và Engels đã bị chứng minh hoàn toàn sai, bởi vì sau khi chế độ cộng sản lan tràn tại nước Nga và tại phần Đông Âu sau Thế Chiến Thứ Hai, giới đảng viên Cộng Sản đã khéo léo bóc lột nhân dân hơn cả bọn tư bản, đã hưởng thụ mọi đặc quyền đặc lợi một cách kín đáo nhờ tuyên truyền bịp bợm về công bằng trong khi ngoài xã hội, hai tầng lớp “công nhân và nông dân” thực sự vẫn nghèo khổ, vẫn bị bóc lột và khai thác tàn tệ mà không được phép kêu than bởi vì mọi tổ chức xã hội do Đảng Cộng Sản độc quyền nắm giữ, mọi sinh hoạt xã hội do bọn Công An canh chừng và theo dõi nghiêm ngặt.

Do quan niệm về Tiến Hóa đã được mọi người quan tâm trong thế kỷ 19, Karl Marx đã dùng lý thuyết về “Đấu Tranh Giai Cấp” để cắt nghĩa Lịch Sử và tin rằng điều này không thể bác bỏ được. Ngoài ra, một đóng góp khá sâu xa của Karl Marx về kinh tế, lịch sử và các ngành khoa học xã hội là cách phát triển một nguyên tắc được gọi là “Duy Vật Biện Chứng” (dialectical materialism), một danh từ vừa mơ hồ, vừa khó hiểu.

Phương pháp biện chứng (dialectical method) bắt nguồn từ nhà triết học người Đức Georg Wilhelm Hegel (1770 – 1831) chủ trương rằng mọi sự vật đều ở trong trạng thái biển đổi. Sở dĩ có sự tiến bộ là do phản lực của các lực đối kháng. Thí dụ hệ thống thuộc địa của người Anh đối nghịch do cuộc Cách Mạng tại Bắc Mỹ đã sinh ra nước Hoa Kỳ và như vậy “định luật của đời sống là các tương phản do chiến tranh với kết quả là các phát triển”. Chủ đề này đã dẫn Karl Marx tới cách thành lập lý thuyết về Duy Vật Sử Quan (the theory of historical materialism) hay cách cắt nghĩa Lịch Sử bằng Kinh Tế. Marx và Engels đã cho rằng “lịch sử của các xã hội hiện hữu là lịch sử của Giai Cấp Đấu Tranh. Người tự do và kẻ nô lệ, giới quý tộc và giới hạ lưu, hạng hầu tước và hạng nông nô, giới chủ và giới thợ, tóm lại các kẻ áp chế và các kẻ bị áp chế luôn luôn đối đầu với nhau, họ thường xuyên gây chiến với nhau”.

Marx tin rằng Hegel đã tìm ra được một định luật tổng quát về lịch sử (a general historical law) gọi là biện chứng (dialectic) và Marx cho rằng Hegel đã dùng định luật này về phương diện siêu hình (metaphysical) nhiều hơn là về phương diện khoa học (scientific).

Marx chấp nhận sự hiện hữu của biện chứng nhưng cắt nghĩa lịch sử theo quan điểm kinh tế học hơn là theo siêu hình học và áp dụng vào các giai cấp trong xã hội hơn là áp dụng cho các quốc gia. Như vậy Marx cố gắng cắt nghĩa lịch sử bằng các đấu tranh giữa các giai cấp (struggle between classes) thay vì đấu tranh giữa các quốc gia như Hegel đã từng chủ trương.

Trong bài điếu văn nói về Marx, Engels cho biết rõ hơn: “Karl Marx đã khám phá ra một sự việc đơn giản, ẩn nấp dưới sự phát triển ý thức hệ, đó là các con người trước tiên cần tới đồ ăn và nước uống, quần áo và nơi trú ẩn trước khi quan tâm tới chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. Điều này có nghĩa là việc sản xuất ra các phương tiện sinh tồn và các giai đoạn của cuộc phát triển kinh tế của một quốc gia hay một thời đại, đã tạo nên nền móng của các định chế của quốc gia, cũng như các quan niệm về luật pháp, nghệ thuật và ngay cả các ý tưởng tôn giáo”. Tóm lại, cuộc tranh giành vì đồ ăn và nơi trú ẩn rõ ràng xác định mọi hành động của con người.

Theo Karl Marx, lịch sử của Nhân Loại bao gồm các bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp kia. Trong thời tiền sử, chỉ có các bộ lạc, đây là loại xã hội không giai cấp nhưng cũng theo Marx, các giai cấp lớn dần theo thời gian, đầu tiên xuất hiện các nô lệ rồi các nông nô, kế tới là giới nô lệ không tài sản và lãnh lương trong chế độ tư bản. Áp dụng lý thuyết Duy Vật Biện Chứng, Karl Marx kết luận rằng bước tiến không tránh khỏi là một cuộc cách mạng của các công nhân, là “nền độc tài của giai cấp vô sản” rồi tới quyền sở hữu cộng đồng và sự quay về cách tổ chức một xã hội không giai cấp. Trong cuốn “Tư Bản Luận”, Marx đã làm phát triển một trường hợp chống lại hệ thống tư bản để chứng minh rằng chế độ này về sau sẽ bị tiêu diệt, một điều không tránh khỏi.

Những người Cộng Sản coi sự đóng góp quan trọng thứ hai của Karl Marx vào nền khoa học xã hội là “lý thuyết về giá trị lao động” (the theory of labor value). Thực ra, căn gốc của lý thuyết này cũng không phải của Karl Marx. Dựa theo các nhà kinh tế của các thời đại trước như Adam Smith và David Ricardo, Marx xác nhận rằng lao động là nguồn gốc của mọi giá trị. Marx đã dẫn chứng lời nói của Benjamin Franklin theo đó “một cách tổng quát, mậu dịch là sự trao đổi giữa các lao động, giá trị của mọi thứ được đo lường bằng lao động”. Từ Adam Smith, Marx đã mượn định nghĩa về tư bản như sau: “tư bản là một lượng lao động được lưu trữ”, còn Ricardo đã từng nói rằng giá trị (value) và giá tiền (price) của bất cứ một vật dụng nào phải được xác định theo số lượng lao động bên trong.

Dùng các tiêu chuẩn kể trên, Karl Marx làm phát triển lý thuyết về “giá trị thặng dư”, vấn đề này được xác định trong cuốn sách “Phê Bình nền Kinh Tế Chính Trị Học” (Critique of Political Economy, 1859) và cũng được xét lại trong tác phẩm “Tư Bản Luận” theo đó người công nhân vì không có tài sản nên chỉ có một thứ hàng hóa (commodity) để bán hầu mong tránh khỏi bị chết đói, đó là sức lao động của chính mình. Chủ nhân đã mua thứ hàng hóa này với giá rẻ mạt, vì vậy giá trị thực của sức lao động không đúng theo số tiền lương đã trả cho người công nhân. Người công nhân được trả 4 xu do làm việc 6 giờ, nhưng đã bị bắt buộc lao động trong 10 giờ. Số 4 giờ dư này đã bị giới tư bản ăn chặn. Karl Marx lý luận rằng vì vậy, lợi tức, tiền lời v.v.  đều xuất ra từ sự thặng dư lao động do người công nhân bị bóc lột và như vậy hệ thống tư bản chỉ là một chế độ khai thác và bóc lột giới lao công.

Lý thuyết về giá trị và thặng dư lao động của Karl Marx đã được dùng trong các công tác tuyên truyền và khuấy động. Ngày nay, các nhà kinh tế đã coi lý thuyết này vô giá trị. Một lý do để bác bỏ lý thuyết về sức lao động của người công nhân là việc dùng tới các máy móc (machinery) nhờ đó đã có các thay đổi lớn lao về sức lao động cần dùng. Solomon Bennett Freehof đã viết rằng: “nhà hóa học đã khám phá ra cách làm cho đất đai phì nhiêu gấp 100 lần sức sản xuất của 10 triệu nông dân. Năng suất (productivity) được tạo nên do nhà hóa học”. Một học giả khác lý luận rằng: “người ta lặn xuống nước mò ngọc trai bởi vì ngọc trai có giá trị, ngọc trai có giá trị không vì công sức của thợ lặn”. Karl Marx đã không biết rằng khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, các cách quản lý và tổ chức đã góp phần vào các giá trị (values) và các giá tiền (prices). Mặt khác, các nhà kinh tế cũng không đồng ý với Karl Marx về cách đo lường giá trị. Các tiêu chuẩn được chấp nhận là sức cầu (demand) và công dụng (utility) của món hàng.

Trở về lý thuyết giá trị thặng dư (surplus value theory), Karl Marx tin rằng các nhà tư bản cố công bóc lột các công nhân bằng cách kéo dài thời giờ làm việc, giảm bớt lương bổng, dùng các lao động rẻ tiền hơn như đàn bà và trẻ em. Karl Marx mô tả như sau: “giới tư bản đã cắt xén người lao động thành một phần của con người, làm giảm giá con người tới mức độ là một thành phần của máy móc, phá hủy những điều thích thú trong việc làm và biến người công nhân thành một dụng cụ đáng ghét. Giới tư bản đã bóp nghẹt các tiềm năng trí thức của người công nhân, làm lệch đi các điều kiện lao động, bắt người công nhân phải sống trong một chế độ độc đoán, khiến cho người công nhân phải thêm giờ làm việc và lôi cuốn vợ con của người công nhân nằm dưới bánh xe khủng khiếp của tư bản”.

Karl Marx nhấn mạnh rằng việc trang bị các máy móc để gia tăng sản xuất không làm dễ dàng cho người công nhân mà còn tạo ra nạn thất nghiệp, nạn khai thác đàn bà và trẻ em; cách sản xuất quá mức các hàng hóa làm mất đi hứng thú của người công nhân trong việc làm. Karl Marx xác nhận rằng “máy móc là vũ khí mạnh nhất để đàn áp các vụ đình công, tức là các vụ nổi loạn của giới công nhân chống lại nền độc tài của giới tư bản. Máy hơi nước là bước đầu tiên của nhà tư bản đạp lên các đòi hỏi của các công nhân. Kể từ năm 1830 có cả một lịch sử các phát minh được dùng làm vũ khí chống lại các vụ nổi dậy của giới công nhân”.

Karl Marx còn cho rằng “sự quá đông dân” (overpopulation) luôn luôn đi kèm với con đường tư bản, khi mà các kỹ nghệ mới được tạo ra, các kỹ nghệ cũ được sửa lại thì hệ thống tư bản cần đến “một đạo quân trừ bị của kỹ nghệ” (an industrial reserve army). Sự thặng dư lao động dẫn tới các suy thoái kinh tế (depressions) và các khủng hoảng (panics). Bởi vì các công nhân bị trả lương tối thiểu, họ không thể mua nổi các sản phẩm mà nhà máy làm ra, các thị trường bị ứ đọng, sức lao động giảm đi và tiếp theo là các suy thoái kinh tế. Trong khi tìm tòi các lối thoát cho các nhà kho chứa đầy hàng hóa, nhà tư bản chuyển sản phẩm sang các thị trường ngoại quốc, cố gắng tìm kiếm các xứ chậm tiến để đổ tháo các hàng hóa mà người công nhân không có khả năng mua vào. Sự cố gắng này và việc tìm kiếm các nguyên liệu rẻ tiền để giữ cho các nhà máy tiếp tục hoạt động đã dẫn tới các xung đột quốc tế và các cuộc chiến đế quốc.

Karl Marx tin tưởng rằng kết quả của các xung đột và rối loạn của chủ nghĩa tư bản là sự gia tăng việc tập trung và độc quyền bởi vì “một nhà tư bản sẽ giết chết các nhà tư bản khác”. Như vậy giới trung lưu sẽ biến đi, các tư bản nhỏ sẽ bị các tư bản lớn nuốt mất và cuối cùng chỉ còn một số nhỏ tư bản gộc đối đầu với giới vô sản là đa số. Lúc này là cơ hội của giai cấp vô sản. Trong cuốn Tư Bản Luận, có đoạn nói như sau: “Trong khi số các tài phiệt lớn giảm dần thì cũng tăng dần số lượng nghèo khó, đàn áp, nô lệ hóa, xuống cấp và bóc lột. Đồng thời cũng gia tăng lòng phẫn nộ của giai cấp lao động, một hạng người mỗi ngày một đông hơn, có kỷ luật hơn, biết đoàn kết và có tổ chức. Sự độc quyền của chế độ tư bản trở thành cách kiềm chế phương pháp sản xuất trước kia đã phát triển. Việc tập trung các phương tiện sản xuất và xã hội hóa lao động đi tới một điểm không thích ứng với lớp vỏ ngoài tư bản khiến cho lớp vỏ này bị vỡ ra từng mảnh. Sẽ vang lên hồi chuông báo tử của nền tư sản và các nhà tư bản sẽ bị tịch thu tài sản”.

Theo Karl Marx, cuộc đấu tranh giai cấp sẽ chấm dứt bằng chiến thắng của giai cấp vô sản. Sau khi nắm chính quyền, giai cấp này sẽ thiết lập nền độc tài và Karl Marx báo trước rằng “đây là giai đoạn chuyển tiếp tới việc hủy bỏ mọi giai cấp và tới việc tạo ra một xã hội tự do và công bằng”. Karl Marx không nói rõ nền độc tài của giai cấp vô sản sẽ kéo dài trong bao lâu. Đất nước Liên Xô nằm trong tầm tay của chế độ cộng sản độc tài sắt máu hơn 70 năm mà người dân Nga vẫn nghèo đói, vẫn ngạt thở. Hơn nữa Karl Marx rất mơ hồ trong việc mô tả một xã hội không giai cấp mà chỉ nói rằng mục đích chính của xã hội cộng sản là “mỗi cá nhân được phát triển toàn diện và hoàn toàn tự do” theo đúng nguyên tắc cộng sản là “mọi người làm việc theo năng lực và hưởng thụ theo nhu cầu” (From each according to his abilities, to each according to his needs!).

Giấc mơ không tưởng hoàn toàn đẹp đẽ này rất tương phản với công cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu và vô cùng tàn ác đã từng xẩy ra trong các xứ cộng sản. Ngoài ra Karl Marx còn công bố rằng các tôn giáo cổ xưa như Thiên Chúa giáo, đã dạy cho mọi người cách cam chịu số mệnh, khuyến khích các đức tính nhẫn nhục và khiêm tốn, vì vậy Karl Marx coi tôn giáo là “thuốc phiện của dân chúng”, đã làm cho giai cấp vô sản mù lòa, không nhìn thấy đường lối phải đi và tôn giáo đã đặt các chướng ngại trên con đường cách mạng.

Karl Marx đặt hy vọng vào tình đoàn kết quốc tế của các công nhân trên toàn thế giới nhưng thực tế cho thấy đã xẩy ra các trận chiến cục bộ giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và Trung Cộng, giữa Trung Cộng và Việt Cộng, giữa Việt Cộng và Khmer Đỏ, và các xung đột giữa các xứ cộng sản như Liên Xô và Nam Tư, Liên Xô và Albany.
Theo thực tế, lý thuyết và các tiên đoán của Karl Marx đã hàm chứa các sai nhầm căn bản bởi vì chế độ tư bản đã đi theo một con đường khác, bởi vì trong khi xã hội tư bản phát triển thì các sửa chữa vẫn được thực hiện. Tại các quốc gia tư bản, giai cấp công nhân đã không bị nghèo đói. Các nghiệp đoàn lao động và các luật lệ của chính quyền đã kiểm soát sự cạnh tranh, loại bớt các bất công và các xấu xa của chế độ tư bản, mang lại sự phong phú cho mọi người. Karl Marx đặt hy vọng vào tình đoàn kết quốc tế của các công nhân trên toàn thế giới nhưng thực tế cho thấy đã xẩy ra các trận chiến cục bộ giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và Trung Cộng, giữa Trung Cộng và Việt Cộng, giữa Việt Cộng và Khmer Đỏ, và các xung đột giữa các xứ cộng sản như Liên Xô và Nam Tư, Liên Xô và Albany.

Karl Marx cũng tiên đoán rằng các cuộc cách mạng vô sản sẽ bùng nổ tại các quốc gia kỹ nghệ cao như nước Anh, nước Đức, Hoa Kỳ v.v… trong khi Liên Xô và Trung Quốc bị Karl Marx khinh rẻ, không coi là các nơi thích hợp cho chế độ cộng sản. Nhìn lại lịch sử của Liên Xô, mọi người thấy rằng quốc gia này không phải là một đất nước Cộng Sản và Stalin không phải là một con người Cộng Sản theo như Karl Marx đã định nghĩa, và các lãnh tụ Cộng Sản kể từ Lenin đã dễ dàng tuyên truyền Chủ Nghĩa Mác Xít hơn là thực hiện đúng theo chủ nghĩa này, cho nên có người đã nói rằng “nếu Karl Marx sống vào thời Stalin, ông ta sẽ chết sớm”.

Tập sách đầu tiên của Bộ “Tư Bản Luận” được xuất bản vào năm 1867, đã được coi là “Thánh Kinh của giai cấp lao động”. Sau khi Karl Marx qua đời vào năm 1883, Fredrick Engels đã thu thập các tài liệu của Marx một cách thiếu đầy đủ, thiếu xếp đặt phân minh rồi Tập II ra đời vào năm 1885 và Tập III vào năm 1894. Hai tập sách này đề cập tới “sự lưu thông của tư bản” (the circulation of capital) và phương pháp sản xuất của chế độ tư bản. Đối với 3 tập sách, nhiều người chỉ đọc Tập I và danh tiếng của Karl Marx nhờ vào tập sách này. Ngoài ra Karl Marx còn viết ra tập thứ tư, tên gọi là “Lý thuyết của Giá Trị Thặng Dư” (The Theory of Surplus Value) do Karl Kautsky biên tập từ các bản thảo của Karl Marx và xuất bản tại nước Đức từ năm 1905 tới 1910.

Cuốn “Tư Bản Luận” (Das Kapital) là một cuốn sách khó hiểu. Nhà phê bình Barzun đã mô tả cuốn này là “viết dở, thiếu thứ tự, thiếu lý luận và tính đồng nhất về tài liệu”. Nhà sử học William Henry Chamberlin bình luận rằng phương pháp Duy Vật Sử Quan của Karl Marx đã bỏ qua các yếu tố quan trọng như sắc dân, tôn giáo và đặc tính quốc gia, đã không kể tới sự quan trọng của bản chất con người. Một nhà phê bình khác nhận xét rằng Karl Marx gây nên nhiều chết chóc, nghèo khổ, suy thoái và thất vọng cho Nhân Loại, nhiều hơn tất cả các nhà tư tưởng khác. Theo Thomas Patrick Neill, Karl Marx là “lãnh tụ đại diện cho các kẻ không có gì (the have-nots) trong công cuộc chống lại các kẻ có tài sản (the haves)”. Karl Marx thôi thúc lòng tham vọng và ghen tuông về quyền lực, chủ trương phá bỏ nền đạo lý đương thời, bởi vì ông ta quá kiêu căng, nhiều ghen tức.

Karl Marx vì sống trong cảnh nghèo túng, đã nói lên các bất công trong xã hội tư bản khiến cho xã hội này phải sửa chữa các sai lầm; mặt khác, lý thuyết của Karl Marx có sức tàn phá ghê gớm, đã từng giết hại hàng chục triệu con người vô tội trong chính các xứ cộng sản do chủ trương “đấu tranh giai cấp”.

Phạm Văn Tuấn

Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia; 100 Great Books, Masterpieces of All Time, by John Canning, Souvenir Press, 1974; A History of Russia by Nicholas Riasanovsky, 4th Edition, Oxford Univ. Press, N.Y. 1984.

Karl Marx
https://en.wikipedia.org/wiki/Karl_Marx

Capital: Critique of Political Economy
https://en.wikipedia.org/wiki/Capital:_Critique_of_Political_Economy

Powered by Blogger.