Khởi thủy con người mưu sinh bằng cách săn bắt và hái lượm nên đời sống nay
đây mai đó. Khi biết cách trồng trọt và chăn nuôi con người chấm dứt cuộc
sống du cư để định cư và khi ấy văn minh bắt đầu khởi sắc. Nơi nền văn minh
nổi lên sớm nhất gọi là “nôi văn minh”.
Nôi văn minh nổi lên độc lập, không chịu ảnh hưởng của văn minh nào khác.
Thế giới có 6 nôi văn minh:
-
Mesopotamia ở thung lũng giữa sông Tigris và sông Euphrates, nay thuộc
Iraq.
- Cổ Ai cập ở thung lũng sông Nile.
- Cổ Ấn độ ở bình nguyên (plain) sông Ganges.
- Cổ Trung hoa ở bình nguyên bắc Trung hoa.
-
Cổ Andes, cũng gọi là văn minh Norte Chico, ở bắc Trung tâm bờ biển
Peru.
-
Mesoamerica trải dài từ trung tâm Mexico qua Beliza, Guatemala, El
Salvador, Honduras, Nicaragua,và bắc Costa Rica.
Văn minh Mesopotamia được người Maya phát triển gọi là văn minh Maya.
Văn minh Maya
Văn minh Maya là một nền văn minh Mesopotamia được người Maya phát triển và
những điểm nổi bật là chữ viết tượng hình (logosyllabic script) cũng như mỹ
thuật, kiến trúc, toán, lịch và thiên văn.
Văn hóa Maya phát triển trong vùng ngày nay là đông nam Mexico, toàn phần
Guatemala và Belize và phía tây Honduras và El Salvador.
Maya là thuật ngữ mới, được áp dụng chung cho các sắc tộc khác nhau sống
trong vùng này. Họ không tự gọi mình là Maya và không có ý niệm về nhận dạng
chung (common identification) và sự thống nhất chính trị. Ngày nay hậu sinh
của họ - gọi chung là Maya - có 6 triệu người, nói 28 ngôn ngữ Maya còn sót
lại và sống quanh quê hương của tổ tiên.
Thời thượng cổ - trước 2000 TTL - xuất hiện những phát triển đầu tiên về
nông nghiệp và những làng mạc sớm nhất.
|
| Chữ viết của dân Maya |
Thời Tiền cổ điển - 2000 TTL - 250 TL - xuất hiện những cơ sở của những liên
hợp xã hội (complex society) trong vùng Maya và sự trồng các cây lương thực
thiết yếu của người Maya gồm bắp, đậu, bí và ớt.
Những thành phố Maya đầu tiên phát triển khoảng năm 750 TTL và vào năm 500
TTL những thành phố này có những kiến trúc đền đài.
Chữ viết tượng hình được dùng vào TK3 TTL.
Trong thời cổ điển, vua được coi là thánh vương (divine king) nghĩa là người
hành sử như một trung gian giữa người trần thế và giới siêu nhiên. Dòng vua
là họ nội (patrilineal) và quyền hành được chuyển cho con trưởng. Vua tương
lai phải là người thành công về chỉ huy quân sự cũng như nhiếp chính.
Những đặc trưng của văn minh Maya
Kim tự tháp và đền thờ
Phần lớn đền thờ được xây dựng trên kim tự tháp.
Đền thờ xưa nhất có lẽ là căn nhà lợp tranh trên nền đất thấp. Vào cuối thời
tiền cổ điển, tường đền thờ bằng đá và mái tranh được thay thế bằng vòm hình
vòng cung bằng đá. Tới thời cổ điển, mái đền thờ là chóp nhọn khiến chiều
cao của đền được tăng thêm. Những vật linh thiêng được chứa trong 1 hoặc 2,
3 phòng và được dùng để thờ cúng các thần linh quan trọng. Thần linh có thể
là một trong những thần hộ mệnh của thành phố hoặc một ông tổ được phong
thần.
Kim tự tháp và đền thờ được xây dựng ở một nơi riêng biệt với thành phố.
Tế thần bằng sinh mạng
Máu được coi là chất bổ dưỡng cho các thần linh và sự tế thần bằng sinh mạng
(human sacrifice) là dâng lễ vật bằng máu lên thần linh.
Nghi lễ này đối với người Maya rất quan trọng.
Thông thường các tù binh cao cấp mới bị giết, những người cấp thấp chỉ phải
lao động khổ sai. Những dịp khai mạc dự án xây cất chính yếu hoặc đăng quang
của tân vương đều đòi hỏi lễ vật bằng sinh mạng. Giá trị cao nhất là sinh
mạng của vua bên địch. Khi bị bắt, vua bên địch bị chém đầu trong nghi lễ
diễn lại cảnh thần chết chém đầu thần bắp (maize god) của Maya.
Trong thời hậu cổ điển, hình thức thông thường nhất trong cuộc tế thần bằng
sinh mạng là moi tim. Người Maya chịu ảnh hưởng hình thức này từ người Aztec
ở thung lũng Mexico. Nghi lễ được diễn ra
ở sân đền thờ hoặc đỉnh kim tự tháp. Thân thể nạn nhân bị Phụ tá giáo sĩ lột
da, trừ chân tay, và giáo sĩ chủ tế mặc bộ da của nạn nhân vào mình và nhảy
múa tượng trưng cho sự tái sinh.
Hệ thống số đếm
Cùng chung với các văn minh Mesopotamia, người Maya dùng hệ thống số đếm
(counting system) nhị thập phân 20 (vigesimal).
Hệ thống chấm và gạch (dot & bar) dùng ở Mesopotamia từ năm 1000 TTL,
Người Maya ứng dụng hệ thống này từ cuối thời Tiền cổ điển và thêm tượng
hình cho số không (zero). Số không này có thể là quan niệm sớm nhất trên thế
giới mặc dù đi sau hệ thống số đếm của Babylona. Số không sớm nhất được khắc
trên bia năm 337 TL.
Hệ thống số căn bản gồm một chấm tượng trưng cho 1 và một gạch tượng trưng
cho 5. Vào thời Hậu cổ điển, vỏ sò tượng trưng cho số không, trong thời cổ
điển số không được tượng trưng bằng chữ tượng hình. Số đếm của người Maya từ
0 tới 19 được lặp lại những dấu hiệu này. Giá trị con số được xác định bởi
chỗ đứng của nó. Khi số đếm chuyển lên trên (shifted upwards), giá trị căn
bản của nó được nhân lên 20 lần. Dấu hiệu ở hàng (level) thấp nhất tượng
trưng cho hàng đơn vị (unit), dấu hiệu ở hàng kế trên tượng trưng cho bội số
của 20 và dấu hiệu ở hàng tiếp trên tượng trưng cho bội số của 400 và cứ như
vậy.
Thí dụ số 806 được viết với 1 chấm và 1 gạch (số 6) ở hàng cuối cùng, 0 ở hàng kế trên
và 2 chấm ở hàng trên cùng, sẽ cho: 6x1 + 0x20 + 2x400 = 806.
Dùng hệ thống này người Maya có thể ghi chép những số cực lớn.
Thiên văn
Người Maya quan sát tỉ mỉ các thiên thể, kiên nhẫn ghi chép các dữ kiện về
chuyển động của Mặt trời, Mặt trăng, sao Kim (Venus) và các vì sao khác.
Những thông tin này được dùng để tiên đoán do đó khoa thiên văn của Maya
thuần túy dành cho những mục tiêu có tính thiên văn.
Mặc dù khoa thiên văn Maya chủ yếu được giới giáo sĩ dùng để hiểu biết các
chu kỳ thời gian quá khứ và dự kiến chúng vào tương lai để đưa ra những tiên
đoán, điều đó cũng có vài ứng dụng thực tiễn giúp cho những vụ trồng trọt và
gặt hái. Giới giáo sĩ sàng lọc những quan sát và ghi chép những vụ nhật
nguyệt thực, chuyển động của sao Kim (Venus) và các sao khác, những sự kiện
này được đo lường đối chiếu với những sự kiện có ghi ngày tháng trong quá
khứ, dùng cho sự tiên đoán những sự kiện tương tự sẽ xảy ra trong tương lai
khi những điều kiện thiên văn cùng loại thích ứng.
Những hình minh họa trong sách viết tay cho thấy các giáo sĩ quan sát các
thiên thể bằng mắt trần được giúp bởi những gậy chéo nhau như một dụng cụ
quan sát. Phân tích vài cuốn sách viết tay còn lại từ thời Hậu cổ điển cho
thấy rằng vào thời giao tiếp với châu Âu người Maya đã ghi chép những bảng
nhật nguyệt thực, lịch, và sự hiểu biết về thiên văn còn chính xác hơn sự
hiểu biết tương ứng ở Âu châu.
Người Maya đo lường chu kỳ 584 ngày của sao Kim chỉ sai biệt 2 giờ. Sách
viết tay cũng ghi 5 chu kỳ của sao Kim bằng 8 chu kỳ của lịch haab (lịch một
năm 365 ngày của Maya). Người Maya cũng theo dõi chuyển động của sao Mộc
(Jupiter), sao Hỏa (Mars) và sao Thủy (Mercury).
Khi sao Kim mọc như sao Mai, thời gian này kết hợp với cặp Song sinh anh
hùng Maya (Maya Hero Twins). Thời kỳ sao Kim mọc gần Mặt trời (heliacal
rising) được kết hợp với sự biến động và hủy diệt.
Sao Kim kết hợp với chiến tranh và chữ tượng hình có nghĩa
“chiến tranh” có biểu tượng của hành tinh này.
Các vua Maya mở cuộc hành quân trùng với thời kỳ sao Kim mọc gần Mặt trời và
cuộc tế thần bằng sinh mạng của các tù binh quan trọng cũng trùng với thời
kỳ này.
Nhật và nguyệt thực được coi như những sự kiện đặc biệt nguy hiểm có thể đưa
thế giới tới hủy diệt.
Trong sách Dresden, nhật nguyệt thực được tượng trưng bằng ngày bị rắn nhai
nuốt. Những bảng ghi chép nhật nguyệt thực giúp người Maya tiên đoán và thực
hiện nghi lễ thích hợp để tránh tai họa.
Văn minh Maya phát triển rực rỡ từ năm 300 TL cho tới khi bị Tây ban nha xâm
lăng vào TK16.
Bùi Quý Chiến
Tham khảo
Post a Comment