Header Ads

Nền Văn Minh Mesopotamia


Phạm Văn Tuấn

Hơn 5,000 năm về trước, con người chưa có văn tự nhưng từ năm 3,200 trước CN (Công Nguyên), tại một khu vực của miền đất Mesopotamia, gọi là Sumer, một loại chữ viết đầu tiên đã được phát minh và “Lịch Sử” bắt đầu từ đây, với ý nghĩa là các sự việc đã được ghi chép khiến cho các nhà sử học có thể hiểu rõ người thời cổ xưa đã làm các công việc gì.

Công việc phát minh ra chữ viết đã cho các người dân của miền đất Mesopotamia được coi là lớp người có ảnh hưởng quan trọng nhất trong công cuộc tiến hóa của nhân loại.

Trong khoảng các năm từ 3,200 tới 500 trước CN, người dân miền đất Mesopotamia còn phát minh ra vài thứ rất quan trọng như bánh xe, có lẽ vào khoảng năm 3,000 trước CN, như lịch, như các phép nhân và chia số học. Ngoài ra, những nhà trí thức của miền đất kể trên còn là những nhà tư tưởng, họ đã đi tiên phong vào các phạm vi học thuật như thần học, luật học, thiên văn và văn chương kể chuyện…, tất cả những kiến thức này đã là căn bản cho các phát triển về sau của các phạm vi tư duy và diễn tả tư tưởng, đồng thời những các nhà cai trị của miền đất Mesopotamia cũng là các nhà quân sự tàn bạo. Tóm lại, các công việc và các tài liệu còn được ghi khắc của người dân miền đất Mesopotamia đã là các trang sử đầu tiên của nhân loại.

1/ Thời đại Sumer.

Từ năm 4,000 tới năm 3,200 trước CN, miền đất giữa hai con sông Tigris và Euphrates được coi là khu vực văn minh đầu tiên trên trái đất bởi vì xã hội và văn hóa của người dân sinh sống trên miền đất này đã theo đúng lối sống của các làng mạc. Sau đó, khoảng thời gian từ 3,200 năm tới 2,000 năm trước CN được các nhà sử học gọi là “thời đại Sumer” (the Sumerian era) do Sumer là phần đất quan trọng nhất của miền Mesopotamia, đây là khu vực bằng phẳng, bùn lầy, diện tích rộng bằng tiểu bang Massachusetts.

Trong 9 thế kỷ đầu của thời đại Sumer, đã không có một chính quyền nào và miền đất Mesopotamia đã gồm có các kinh thành độc lập, quan trọng nhất là Ur, Uruk và Lagash. Vào khoảng năm 2,335 trước CN, một chiến sĩ mà tên tuổi không còn được ghi khắc lại và từ địa phương Akkad, ở phía bắc của miền Mesopotamia, đã chinh phục được cả miền Sumer rồi lấy danh hiệu là “Sargon”, tức là “nhà vua thực sự” (true king). Biên niên sử của miền Mesopotamia đã ghi lại rằng Vua Sargon đã đánh thắng 34 trận rồi kiểm soát được cả vùng Sumer. Các chiến công cuối cùng đã đưa nhà vua này tới “vùng biển phía dưới” (the lower sea), tức là Vịnh Ba Tư (the Persian Gulf), tại nơi này nhà vua đã rửa kiếm tức là chấm dứt các cuộc chinh phục.

Sargon là nhà vua đã xây dựng được một đế quốc đầu tiên của Lịch Sử và trong 2 thế kỷ, đế quốc này đã gồm có 2 miền đất là Akkad và Sumer. Nhưng vào năm 2,130 trước CN, người dân của miền đất Sumer đã nổi lên, giành lại nền độc lập và duy trì được sự tự trị này cho tới gần năm 2,000 trước CN. Trong khoảng thời gian này, các nhà vua của miền Sumer đã đóng đô tại kinh thành Ur.

Các thành quả của người Sumer đạt được phần lớn là do khí hậu và địa dư. Mặc dù đất đai của các miền đất phía nam của hai con sông Tigris và Euphrates rất phì nhiêu nhưng vì không có nước mưa trong 8 tháng liền mỗi năm trong khi đó vào mùa xuân, mưa lại rơi xối xả, quá trễ để tưới nước cho các vụ mùa cần được gặt hái vào tháng 4. Qua các tháng hè, đất đai tại nơi đây bị nứt nẻ vì nhiệt độ lên tới 125 độ F (khoảng 51 độ C). Vì vậy phải có các công trình lao động tập thể để dẫn nước vào ruộng và công việc này cần tới cách trù liệu cẩn thận và sự lãnh đạo quả quyết, rồi hai điều kiện sau này lại khiến cho có các tầng lớp xã hội, sự chuyên môn nghề nghiệp và sự xuất hiện của các kinh thành.

Một vấn đề quan trọng khác là phía nam của miền đất Mesopotamia hoàn toàn thiếu thốn các tài nguyên thiên nhiên như đá, khoáng sản và ngay cả các cây cối. Sự việc này đã khiến cho người dân Sumer phải biết cách mậu dịch (trade) làm sao cho có lợi cho họ cũng như các cách khắc phục thiên nhiên.

Một trong các phát minh đáng kể nhất của người dân Sumer vào khoảng năm 3,200 trước CN là cách chuyên chở dùng bánh xe. Cũng nên biết rằng người dân Ai Cập (Egypt) chỉ biết tới bánh xe vào năm 1,700 trước CN. Có lẽ người dân Sumer khi dùng bàn tròn để nặn đồ gốm (đã được dùng vào khoảng năm 3,500 trước CN) đã nghĩ ra cách lắp thứ bàn tròn này vào loại xe kéo và thứ xe cộ này được coi như một trong các phát minh quan trọng nhất của mọi thời đại.


Các loại xe cộ đầu tiên của người Sumer là loại xe trận 2 bánh (chariots) và loại xe chuyên chở 4 bánh. Cả hai loại này đều do lừa kéo bởi vì người dân của miền tây châu Á thời đó chưa biết tới con ngựa, loại động vật này được các kẻ xâm lăng từ phía đông mang tới miền đất Sumer vào khoảng thời gian từ 2,000 năm tới 1,700 năm trước CN. Các bánh xe thời đó được làm bằng gỗ đặc, ghép vào nhau bằng một loại đinh.

Loại xe trận (chariots) được dùng cùng với các đội hình binh sĩ phalanx, điều này được biết do các hình ảnh vẽ từ 2,600 năm trước CN, còn được ghi lại cảnh trí vẽ quân đội giẫm lên quân thù. Loại xe chuyên chở không cần tới tốc độ được dùng để vận chuyển đồ dùng, đã giúp ích các người Sumer rất nhiều trong các công tác dẫn nước vào ruộng và xây dựng nhà cửa, lâu đài.

Âm lịch
Cùng với loại bánh xe, người Sumer còn nghĩ ra một thứ phát minh rất quan trọng cho nhân loại, đó là "âm lịch" (the lunar calendar). Tại một xứ sở mà thời tiết rất bất thường và khắc nghiệt, người dân địa phương cần phải gieo hạt và gặt hái đúng kỳ hạn, vì thế họ cần tới một thứ phương pháp nào đó để ghi chép ngày tháng khiến cho việc canh nông trở lại đúng vào vụ mùa năm tới. Cách đơn giản nhất là dùng chu kỳ của mặt trăng.

Bởi vì mặt trăng có biến tướng từ lưỡi liềm mỏng nhất tới cùng hình dạng này sau 29 ngày rưỡi cho nên người thời cổ xưa đã dùng khoảng thời gian này làm đơn vị, mà ngày nay chúng ta gọi là một tháng, sau đó, người thời cổ xưa đã đếm các đơn vị tháng này để tính ra một vòng quay đầy đủ. Người Sumer cho rằng sau 12 đơn vị tháng là một năm trôi qua. 

Thực ra, người Sumer đã không biết rằng một năm là quãng thời gian trái đất quay chung quanh mặt trời và 12 "tháng mặt trăng" ngắn hơn một năm mặt trời 11 ngày. Sau nhiều thế kỷ, người thời cổ xưa đã biết thêm 1 tháng vào vài năm âm lịch để sửa chữa các sai lệch. Ngày nay, lịch của người Do Thái mới (the modern Jewish) và lịch Hồi Giáo cũng dùng Âm Lịch do bởi 2 sắc dân này đã thừa hưởng di sản của người Sumer.

Ngoài hai thứ phát minh rất giá trị của người dân Sumer là bánh xe và lịch, còn có một thứ khám phá thứ ba, đó là "chữ viết". Thực ra, đây không hẳn là một phát minh bởi vì sự xuất hiện và cải tiến của chữ viết đã kéo dài trong một thế kỷ (vk năm 3,500 tới năm 2,500 trước CN), khởi đầu từ cách trình bày các ý tưởng bằng các hình vẽ quy ước, tiến dần cho tới cách viết và đọc chữ.


Vào khoảng năm 3,500 năm trước CN, người dân miền Sumer bắt đầu biết khắc các hình ảnh vào các miếng đá hay đóng các dấu ghi vào các miếng đất sét, để coi đây là các dấu hiệu sở hữu một vài thứ nào đó, và hình vẽ kể trên có thể là tên của một người hay của một nơi cư trú. 500 năm về sau, cách ghi khắc này đã tiến hóa thành cách viết chữ để rồi vào thời đó, các người Sumer cai quản các ngôi đền đã dùng các hình ảnh có tính cách phác họa để ghi lại các tài sản hay các chuyển nhượng của các ngôi đền thờ. 

Các hình ảnh ghi khắc lúc đầu tượng trưng cho các con người hay các vật dụng cụ thể rồi dần dần mô tả những điều trừu tượng, chẳng hạn một các bát (chén ăn cơm) diễn tả đồ ăn và hình một đầu người với một cái bát diễn tả quan niệm thực phẩm. Sau 500 năm nữa, cách viết chữ đã phát triển đầy đủ, trở thành các ký hiệu (signs) mà người dân phải học hỏi để biết cách đọc và viết.

Hệ thống chữ viết của người Sumer đã tiến tới hình thức phát triển đầy đủ vào khoảng năm 2,500 năm trước CN và được gọi là "chữ viết hình nêm" (cuneiform), bởi vì người dân thời đó đã dùng một đoạn cây sậy có đầu hình tam giác để đóng vào các miếng đất sét còn ướt.
Người dân Sumer thời đó đã biết cách dùng khoảng 500 chữ với các ý nghĩa trùng hợp và người ta phải đọc cả bản văn mới hiểu nổi ý nghĩa của từng chữ, từng câu. Dù còn khuyết điểm như vậy, hệ thống chữ viết hình nêm đã là hệ thống chữ viết duy nhất của miền Mesopotamia trong 2 thế kỷ và đã trở nên phương tiện tiêu chuẩn của các chuyển nhượng thương mại tại các miền đất phía tây của châu Á cho đến năm 500 trước CN.

Vào khoảng 90 % các bản viết dùng chữ hình nêm từ thời đại Sumer còn tồn tại cho tới ngày nay, là các ghi chép thương mại hay quản trị, số 10 % thuộc loại văn chương như các mẩu chuyện thần thoại hay các bài hát. Một thí dụ về câu tục ngữ Sumer là "ở đâu có thợ sửa sắc đẹp thì tại nơi đó có sự nói xấu". 

Các bài hát và các câu chuyện thần thoại đã cho thấy rằng người Sumer khi trước đã thừa nhận có các vị thần (gods) hành động như những người bảo vệ các lãnh vực khác nhau: bầu trời, mặt đất, dưới cõi âm..., và còn có các vị thần che chở cho các kinh thành khác nhau.

Mặc dù quan niệm như thế nào về các vị thần, các ngôi đền Sumer đã xuất hiện trong lòng các xã hội trong khoảng thời gian từ năm 3,200 tới năm 2,000 trước CN. Các ngôi đền Sumer thường được xây dựng bên trên một thứ tháp rất cao bằng gạch, gọi tên là Ziggurat.

Ziggurat là một công trình xây dựng vĩ đại, đòi hỏi việc làm gian khổ của 1,500 công nhân, làm việc mỗi ngày 10 giờ trong 5 năm trường. Các công nhân xây dựng này có thể là các người tình nguyện vì tôn giáo, đã làm việc theo các ca luân phiên nhau.

Các tu sĩ hay các nhà quản trị địa phương của miền Sumer không sinh sống trong các đền thờ mà ở trong các tòa nhà xây cất chung quanh đền thờ. Cũng ở trong các vùng ven này là các người thợ thủ công và các nô lệ. Do bởi các tu sĩ phải học chữ viết hình nêm nên cũng trong vùng bao quanh đền thờ, đã có các trường học để dạy viết chữ và các kiến thức cần thiết cho giới tu sĩ. Đây là các trường học đầu tiên trong lịch sử của nền văn minh thế giới.

Cũng ở chung quanh đền thờ là các mảnh ruộng mà các nông dân cày cấy để cung cấp thực phẩm cho giới tu sĩ và cũng tại nơi đây, người dân đã bán ra các sản phẩm do họ sản xuất hay tồn trữ, cho các người dân khác ở gần, và họ cũng chuyên chở hàng hóa đi xa. Như vậy trước khi Sargon chinh phục các miền đất Mesopotamia, các tu sĩ là các nhà cai trị địa phương hay cai quản các đền thờ rồi sau khi triều đại của vua Sargon sụp đổ thì đã có các nhà vua khác lên cầm quyền, thay thế cho các tu sĩ.

Ngoài các nhà vua, các tu sĩ và các chiến sĩ cao cấp (họ cũng là bà con của vua chúa và tu sĩ), xã hội của miền Mesopotamia có 3 giai cấp: các người chuyên môn trong đền thờ, các nông dân tự do và các nô lệ. Các nhà chuyên môn gồm có các nhà quản trị, các thương gia và các thợ thủ công, những người này khá sung túc nhưng phải sinh sống lệ thuộc vào các tu sĩ. Các nông dân tự do có lẽ chỉ được phép cày cấy trên các mảnh đất xấu, họ thường mắc nợ nhà thờ để sống còn. Còn về các người nô lệ, ngày nay chúng ta không có các ghi chép nào nói về lớp người này nhưng chắc chắn là đời sống của họ rất cực khổ.

2/ Nền cai trị của xứ Babylon Cổ.

Người Sumerians đã thành công trong nhiều phạm vi khoa học, văn hóa, nhưng họ không thể khắc phục được vấn đề môi trường, bởi vì đất đai của họ bị xấu đi vì số lượng muối (salt) tăng lên. Công việc dẫn nước vào miền đất khô cằn Sumer từ các con sông gần đó đã mang lại độ ẩm cho đất đai, nhưng khi nước đã bốc hơi đi thì một lượng muối còn ở lại. Đối với thời gian vài ba năm, số lượng muối này không đáng kể nhưng sau hàng thế kỷ, lượng muối trở nên rất lớn, đã làm hại tới sự phì nhiêu của đất đai. Việc khảo cứu các tấm bảng viết bằng chữ hình nêm (cuneiform tablets) đã cho biết rằng các miền đất cày cấy tại các phần đất của xứ Sumer đã trở nên kém đi vào năm 2350 năm trước CN.

Vào khoảng năm 2000 trước CN, đất đai của xứ Sumer đã không thể sản xuất đầy đủ các sản phẩm nông nghiệp, giới tu sĩ, các nhà quản trị và các binh lính không thể sinh sống được trong các thành phố. 

Thời đại Sumer của miền đất Mesopotamia đã bị thay thế bởi thời đại Babylon Cổ (the Old Babylonian era), kéo dài từ năm 2,000 tới năm 1,600 trước CN, và thời đại sau này phát triển cao nhất vào khoảng năm 1770 trước CN.

Sennacherib của Assyria trong cuộc chiến tranh Babylon của ông, hình trong cung điện của ông ở Nineveh

Hai thời đại Sumer và Babylon Cổ không khác nhau về văn hóa nhưng lại khác biệt về địa dư và ngôn ngữ. Phần lớn các thành phố thịnh vượng và có nền văn hóa tiến bộ của thời đại Sumer đều ở xa về phía nam của miền Mesopotamia, nhưng 400 năm sau, nền văn minh của thời đại Babylon Cổ lại chuyển lên mạn bắc, tới thành phố Akkad, tại nơi này, một thành phố mới được thành lập, đó là kinh thành Babylon. 

Về ngôn ngữ, người Sumerians dùng tiếng nói không liên hệ tới một ngôn ngữ nào trong khi người của kinh thành Babylon Cổ có tiếng nói thuộc nhóm Semitic. Ngày nay các dân tộc dùng ngôn ngữ Semitic gồm có các người Ả Rập, Do Thái và người Ethiopians với nguồn gốc từ bán đảo Ả Rập. Người ta không biết rõ tại sao và khi nào các bộ lạc Semitic đã đi lên miền đất Mesopotamia, nhưng người ta lại biết rằng nhà chinh phục Sargon và quân lính của ông ta là các người Semites và xứ Sumer đã bị các người Semites này chinh phục cho tới cuối năm 3,000 trước CN và xứ Sumer này đã phục hồi trong các năm từ năm 2130 tới năm 2,000 trước CN nhưng vẫn có các vùng đất nhỏ tại Akkad và Sumer do các bộ lạc Semites chiếm giữ.

Cuối cùng, các người Amorites, cũng là người của xứ Babylon Cổ, đã tiến vào miền dất Mesopotamia vào khoảng năm 2,000 trước CN và cũng vào miền đất Akkad. Tới lúc này, ngôn ngữ Semitic của người Amorites đã là tiếng nói của miền Mesopotamia trong khi người Amorites lại theo văn hóa của người Sumerians.

Người Amorites đã dùng kinh thành Babylon trong miền đất Akkad làm thủ đô của đế quốc của họ, vì vậy họ còn được gọi là người Babylonians Cổ.  

Hammurabi
Người sáng lập ra Đế Quốc Babylon Cổ là nhà cai trị vĩ đại xứ Amorite tên là Hammurabi (trị vì từ năm 1792 tới năm 1750 trước CN). Khi Hammurabi lên ngôi vua, dân tộc Amorite chỉ là một trong các lực lượng chiến đấu của miền Nam Mesopotamia nhưng vào năm 1763 trước CN, Hammurabi đã chinh phục được tất cả miền Sumer rồi tới năm 1775 trước CN, ông ta đã chiếm được các phần còn lại của miền Mesopotamia cho tới tận miền bắc. Do các chiến thắng này, Hammurabi đã tự gọi mình là “Vua của Akkad và Sumer” rồi là “Vua của Bốn Phương Trời” (King of the Four Quarters of the World).

Mặc dù sự khoa trương này, đế quốc của Vua Hammurabi đã không tồn tại được lâu, nhưng Vua Hammurabi còn được gọi là “Vua của Công Lý” (King of Justice) bởi vì vị vua này đã cổ vũ cho một bộ luật tập thể và tổng quát đầu tiên (the earliest extensive collection of laws) của nhân loại.

Các học giả đã đồng ý rằng Bộ Luật Hammurabi (the Code of Hammurabi), một tài liệu ghi khắc trên đá chứa 282 điều luật căn cứ vào các nguyên tắc luật pháp của xứ Sumer, nhưng bộ luật này không có quan niệm mới về “bình đẳng trước Pháp Luật” (equality before the law).

Trong Bộ Luật Hammurabi, các kẻ nô lệ không có quyền gì cả, họ có thể bị cắt, xẻo thân thể chỉ vì các tội phạm tầm thường. Trước Pháp Luật thời đó có 2 hạng người là “con người” (men), tức là các nhà quý tộc (aristocrats) và các người khác không phải là “con người” hay nô lệ, những người này có một chút quyền lợi. Các tội phạm của các “con người” đối với các kẻ thuộc giai cấp thấp, thì ít bị trừng phạt tàn nhẫn.

Hai nguyên tắc nổi tiếng nhất của Bộ Luật Hammurabi là “mắt trả bằng mắt” (an eye for an eye) và “người mua hàng phải biết rõ” (let the buyer beware). Với nguyên tắc thứ nhất, kẻ nào làm hại con mắt của người khác thì con mắt của kẻ đó phải bị tổn hại. Nguyên tắc thứ hai đã cho phép các kẻ bán hàng dễ dàng gian xảo bởi vì người mua hàng không có quyền khiếu nại.

Các đạo luật cùa người Mesopotamians có chủ đích ngăn ngừa các vụ tranh chấp, đánh nhau... bởi vì họ tin rằng các cách trừng phạt sẽ làm nản lòng các kẻ gây hấn.

Bộ Luật Hammurabi thì không hoàn toàn đúng theo các quan niệm về công lý và sự trả thù xứng đáng thì lại kèm theo sự tàn ác, nhưng dù sao, Bộ Luật này đã là khởi đầu cho sự phát triển về sau của Bộ Môn Luật Pháp.

Nổi tiếng giống như Bộ Luật Hammurabi là Tập Thơ Anh Hùng Ca Gilgamesh (the Epic of Gilgamesh). Đây là công trình của cả hai miền Sumer và Babylon Cổ. Gilgamesh là vua của xứ Sumer, đã cai trị xứ sở này vào khoảng năm 2,600 trước CN. Tới vào khoảng năm 1,900 trước CN, một người Semitic đã gom 4 hay 5 truyện Gilgamesh thành một tập anh hùng ca (epic) và đây là tập thơ tuyệt vời mà ngày nay chúng ta được biết. (1)

Phẩm chất đặc biệt của tập thơ anh hùng ca này là kể lại các cuộc mạo hiểm và các ước vọng của một người anh hùng trong một thế giới của cõi chết, đây là một sự kiện mà mọi người không tránh khỏi. Sau khi đã tranh đấu nhiều, Gilgamesh đã kinh hoàng vì cõi chết, đã đi tìm sự trường sinh bất tử từ một ông già và bà vợ của ông ta, hai người này đã được cứu vớt do trú ẩn vào một con thuyền nhỏ khi các thần linh quyết định tàn phá thế gian bằng một trận hồng thủy.

Hai người già cả này đã xác nhận với Gilgamesh rằng sự trường sinh bất tử thì không thể có được nhưng họ lại tiết lộ rằng có một thứ cây làm phục hồi tuổi trẻ mà Gilgamesh đã bị mất đi. Nhưng không may, sau khi tìm thấy được thứ cây này ở dưới đáy biển, Gilgamesh đã không canh chừng cây trường sinh trong khi ngủ và một con rắn đã ăn hết cây này. Như vậy ước vọng bất tử đã khiến cho Gilgamesh cuối cùng phải chấp nhận rằng anh ta nên tận hưởng mỗi ngày (he should enjoy each day) mà không nên bận tâm về ngày hôm sau.

Vào thời đại Babylon Cổ, người dân tin tưởng rằng ngoài các thần linh chính trị (political gods) còn có các vị thần trông coi các công việc thường ngày của các cá nhân và người dân thường đã cầu nguyện các vị thần để có thể thành công hay được tha thứ vì các hành động sai trái.

Bản khắc ghi chép về toán học
Ngoài ra, một đặc điểm văn hóa rất đáng quan tâm của Xứ Babylon Cổ là môn Toán Học (mathematics). Vào khoảng 1,800 năm trước CN, các người thư ký tại các ngôi đền Babylon Cổ đã biết dùng các bảng nhân và chia, họ cũng biết tính căn số bậc hai (square roots), căn số bậc ba (cubic roots), số đảo (reciprocals) và các hàm số lũy thừa (exponential functions). Như vậy có thể kết luận rằng các người Babylon Cổ là những nhà toán học tiến bộ nhất trong thời đại cổ xưa.

Một áp dụng khác dùng trong đời sống hàng ngày của các nhà toán học Babylon Cổ là cách chia ngày ra làm 2 tập hợp (2 sets), mỗi tập hợp 12 giờ, rồi 1 giờ có 60 phút và 1 phút có 60 giây. Các người Babylon Cổ đã biết dùng các bội số của 12 (multiples of twelve) do họ quen với chu kỳ 12 tuần trăng trong 1 năm.

3/ Các dân tộc Kassite và Hittite.

Đế quốc Babylon Cổ chỉ tồn tại được 1 thế kỷ rưỡi sau khi Vua Hammurabi qua đời vào năm 1750 trước CN. Do không có đủ chứng cớ, các sử gia chỉ biết rằng các người Babylon này dần dần không thể kiểm soát được các thành phố lớn. Ngoài ra họ phải đối đầu với một dân tộc lạ là Kassites từ miền Trung Á, đây là lớp người có một kỹ thuật tác chiến mới với các chiến xa nhẹ do ngựa kéo.

Trong khoảng thời gian từ 1,650 trước CN tới năm 1,600 trước CN, các người Kassites đã dùng sức mạnh xâm chiếm phần lớn miền Mesopotamia nhưng đế quốc Babylon Cổ đã bị tiêu diệt không phải do người Kassites mà do dân tộc Hittite.

Vào năm 1,595 trước CN, đạo quân Hittites từ miền bắc đã san bằng thành phố Babylon và đã phá hủy các di tích của đế quốc Babylon Cổ.

Sau khi đã quét sạch sự thống trị của các người Kassites, các người Hittites đã rút lên mạn bắc. Các người Kassites đã không lợi dụng cơ hội này để phục hồi được sự thống trị của họ bởi vì họ thiếu đi các căn bản về chính trị và văn hóa. Vì vậy trong một thế kỷ tiếp theo, miền Mesopotamia đã ở trong “thời kỳ đen tối” (the dark age), trong thời gian này, miền nam gồm Akkad và Sumer vẫn do các người Kassites cai trị trong khi tại miền bắc thuộc về các dân tộc đang tranh chấp.

Về dân tộc Hittỉte, sắc dân này có nguồn gốc từ các thảo nguyên của miền Trung Á và dùng ngôn ngữ Ấn – Âu (Indo-European tongue). Từ năm 1,600 trước CN, trong 2 thế kỷ, đế quốc Hittite đã tràn qua phía đông của vùng Địa Trung Hải bao gồm 2 nước Syria và Lebanon. Sau khi đã tàn phá kinh thành Babylon vào năm 1,595 trước CN, các người Hittites đã cai trị trực tiếp miền Mesopotamia. 

Đế quốc Hittite đạt tới đinh cao về địa lý và kinh tế trong khoảng các năm từ 1,450 tới năm 1,300 trước CN, rồi vào thế kỷ 13 trước CN, các người Hittites phải đương đầu với các cuộc xâm lăng từ xứ Ai Cập và từ miền Bắc Mesopotamia.

Vào khoảng 1,185 trước CN, lực lượng Hittite bị tiêu diệt do các cuộc tấn công của các dân tộc thuộc mạn biển ở phía tây. Các nhà sử học không biết gì thêm về dân tộc Hittite này cho tới năm 1,907, các khai quật của thủ đô Hattusas (có nghĩa là thành phố Hittite = Hittite City) đã đưa ra ánh sáng 20,000 bảng ghi bằng đất sét (clay tablets), nhờ đó người ta biết rằng các người Hittites này đã thành công trong một thời gian dài nhờ thứ võ khí độc quyền được chế tạo bằng sắt (iron). Nhưng cũng có sử gia tin tưởng rằng võ khí bằng sắt không hẳn đã là có lợi hơn trong các cuộc chiến tranh của các người Hittites. 

Lợi thế của các người Hittites là miền đất Anatolia của họ giầu tài nguyên về đồng, sắt và bạc, họ lại có nhiều kinh nghiệm về thuật luyện kim, về cách chế tạo các dụng cụ bằng đồng và sắt. Ngoài ra, các người Hittites còn có một hệ thống chính quyền hữu hiệu, biết phân quyền tới các địa phương và họ cũng biết dùng lối chữ viết hình nêm (cuneiform) của các dân tộc bên cạnh.

4/ Sức mạnh của các người Assyrians.

Sau thời kỳ đen tối Kassite là Đế Quốc Assyrian, kéo dài từ năm 1,300 tới năm 612 trước CN. Dân tộc Assyrian thuộc nhóm dân dùng ngôn ngữ Semitic, họ định cư tại con sông Tigris thuộc phía bắc của miền Mesopotamia.

Trong thời kỳ đen tối, các người Assyrians đã thành lập được một quốc gia nhỏ tại thành phố Assur, họ đã bành trướng sức mạnh vào đầu thế kỷ thứ 13 trước CN sau khi họ đã thấu triệt các chiến thuật dùng chiến xa 2 bánh (chariots).

Vào khoảng năm 1,250 trước CN, các người Assyrians là chủ nhân của toàn vùng phía bắc Mesopotamia sau khi họ đã đánh thắng các người Kassites tại Akkad và Sumer. Vào năm 1,225 trước CN, Vua Assyrian đã chiếm được kinh thành Babylon.

Các người Assyrians đã trực tiếp cai trị 2 xứ Akkad và Sumer trong 8 năm nhưng họ đã gián tiếp ảnh hưởng tới miền Nam của Mesopotamia trong 6 thế kỷ. Vào năm 900 trước CN, các người Assyrians đã kiểm soát được các tài nguyên và các con đường thương mại, họ chinh phục xứ Syria và tới miền Địa Trung Hải, rồi vào khoảng năm 840 trước CN, họ sát nhập miền nam Anatolia.

100 năm sau nữa, các người Assyrians đã chinh phục được đất đai của Vua Sennacherib (cai trị từ năm 705 tới năm 681 trước CN) và như vậy, các người Assyrians đã là chủ nhân của tất cả các miền đất của phía tây châu Á.

Vua Sennacherib đã thành lập được một kinh thành có tên là Nineveh (2), rực rỡ nhất trong miền Mesopotamia kể từ trước tới nay. Bên trong thành lũy bao bọc kinh thành dài 7 dặm rưỡi là các ngôi đền thờ tráng lệ và một lâu đài hoàng gia với tối thiểu 71 phòng. Bên ngoài thành lũy là các khu vườn cây và vườn Bách Thú với các loại cây hiếm thấy và các con thú rừng mà nhà vua đã ra lệnh mang về từ những nơi xa xôi.

Tranh vẽ về kinh thành Nineveh của Sir Austen Henry Layard, 1853

Do không vừa lòng với phẩm chất của loại nước thường được cung cấp tại chỗ, nhà vua đã giám sát một công trình khác thường, đó là loại nước sạch từ nước suối ở trên núi cách 50 dặm xa phải được dẫn về kinh thành Nineveh bằng các cống dẫn nước và các cầu dẫn nước (aquaducts). Để ghi nhớ sự hoàn thành dự án dẫn nước này, các bảng ghi khắc trên đá tại nguồn nước đã mô tả công trình và ghi chép rằng các thiên thần đã hỗ trợ các chiến công quân sự của nhà vua.

Trong số các căn phòng trong lâu đài của nhà vua Sennacherib tại Nineveh, có một thư viện gồm các bảng ghi khắc bằng đất sét (clay tablets), bên trong đề cập tới các kiến thức thực tế và các sự kiện tôn giáo. Sự học hỏi này là từ miền nam Mesopotamia bởi vì các người Assyrians đều học hỏi từ miền Sumer Cổ và Babylon Cổ. Họ cũng thờ phượng tất cả các thần linh (gods) của xứ Babylon Cổ cùng với vị thần linh Assur của họ. Sau khi cướp phá kinh thành Babylon vào năm 1,225 trước CN, các người Assyrians đã mang về các bảng ghi khắc bằng đất sét (clay tablets).

Nhà vua kế nghiệp Vua Sennacherib tên là Assurbanipal (trị vì 668 – 627 trước CN) cũng đã bổ xung vào thư viện tại Nineveh các kiến thức và văn chương của 2 miền Sumer và Babylon Cổ.

Các người Assyrians cũng chấp nhận sự cai trị của Nữ Hoàng Sammuramat (các người Hy Lạp rồi sau này người châu Âu đã gọi Nữ Hoàng này là Semiramis). Vị nữ hoàng này đã cai trị xứ sở từ năm 810 tới năm 805 trước CN và sự kiện này được coi như một huyền thoại.

Khi triều đại của Vua Sennacherib bắt đầu, các người Assyrians đã tỏ ra là cực kỳ tàn ác trong cả ngành nghệ thuật lẫn các chính sách. Tại các bức họa khắc nổi trang hoàng tại Nineveh, người Assyrians đã ca ngợi chiến tranh và các cảnh chém giết. Đã có các bức vẽ cuộc đi săn sư tử với cảnh hấp hối của con thú vật đồng thời các người Assyrians đã giết người một cách không thương tiếc.

Vào năm 689 trước CN, một cuộc nổi loạn chống lại quyền lực của các người Assyrians tại Babylon, nhà vua Assurbanipal đã cho quân lính cướp bóc và tàn phá “kinh thành Babylon hoàn toàn hơn là một trận lụt lớn và phá hủy mọi nơi thành bình địa”.

Chính sách tàn ác trong các cuộc chiến của các người Assyrians đã khiến cho các dân tộc bị họ chinh phục luôn luôn thù ghét họ, các cuộc nổi loạn thỉnh thoảng vẫn bùng lên trong suốt thế kỷ thứ 7 trước CN, với trung tâm vẫn là kinh thành Babylon.

Vào năm 651 trước CN, một cuộc nổi dậy đã diễn ra tại miền nam Mesopotamia. Người cháu nội của  Vua Sennacherib tên là Assurbanipal đã bao vây kinh thành Babylon và thực hiện cuộc tàn sát rất vô nhân đạo.

Các dân tộc của miền nam Mesopotamia đã không bao giờ quên việc phá gỡ gông cùm của các người Assyrians. Vào năm 614 trước CN, họ đã liên kết với bộ lạc Medes ở xứ Iran rồi trong vòng 2 năm, đế quốc Assyrian đã bị tàn phá vào năm 612 trước CN. Kinh thành Nineveh bị san thành bình địa giống như kinh thành Babylon, Nineveh không bao giờ có thể phục hồi được nữa. Sự vui mừng của các kẻ chiến thắng kể trên được ghi lại trong Sách Nahum, trong Kinh Cựu Ước (the Old Testament).

5/ Sự phục hồi của Babylon.

Người dân miền nam Mesopotamia đã chống cự sự thống trị của các Assyrians trong một thế kỷ, họ đã cộng tác với các người dân dùng tiếng Semitic được gọi là các người Chaldeans và cùng với các người Medes, để tàn phá kinh thành Nineveh. 

Từ nay, các người Chaldeans là chủ nhân của miền Mesopotamia và do họ đặt thủ đô tại Babylon cũ cho nên các sử gia đã gọi họ là những người Babylon Mới (the New Babylonians).

Nhà cai trị nổi danh nhất người Babylon Mới là Vua Nebuchadnezzar (trị vì 604 – 562 trước CN). Nhà vua này đã chinh phục được thành phố Jerusalem và khiến cho đế quốc của ông ta hùng mạnh nhất tại vùng Tây châu Á vào thời đó.

Sau khi Vua Nebuchadnezzar qua đời, xứ Babylon Mới lại bị các người Ba Tư (the Persians) tấn công. Vào năm 539 trước CN, dưới thời Vua Belshazzar, kinh thành Babylon đã đầu hàng người Ba Tư.

Kinh thành Babylon của thời đại Babylon Mới là thứ Babylon mà ngày nay người ta hiểu biết rõ nhất do bởi các khai quật vào thế kỷ 20 và do các du khách cổ xưa Hy Lạp kể lại. Kinh thành này rộng 2,100 acres so với diện tích của kinh thành Nineveh là 1,850 acres và 135 acres của thành phố Sumer.

Các người Hy Lạp cổ xưa đã gọi bức tường thành (the city wall) xây dựng nên do Vua Nebuchadnezzar là một trong bẩy kỳ quan của Thế Giới (one of seven wonders of the world), đặc biệt là Cổng Ishtar (the Ishtar Gate), dùng để thờ Nữ Thần Ishtar, với các bức tranh rực rỡ mầu xanh vẽ các con bò rừng, sư tử, rồng...


Vua Nebuchadnezzar còn được gọi là một trong các nhà xây dựng rực rỡ nhất của Lịch Sử (one of the history’s most magnificent builders) do đã tạo nên “Khu Vườn Treo Babylon (Babylon’s Hanging Gardens) và khu vườn này đã đi vào truyền thuyết (legend).

Ngoài các công trình kiến trúc đồ sộ và tráng lệ, xứ Babylon Mới còn xuất sắc về phạm vi Thiên Văn Học (astronomy). Các dân tộc thuộc miền Mesopotamia trước kia đã từng quan sát các biến tướng (phases) của Mặt Trăng để tiên đoán về thời tiết, thì 2 ngàn năm sau, họ vẫn khảo sát bầu trời về ban đêm và tới sau này, họ đã nghiên cứu các chuyển động của các ngôi sao và các hành tinh (planets), bởi vì họ tin tưởng rằng có các thần linh cư ngụ trên trời, rồi nhờ cách tiên đoán các hành tinh và các ngôi sao mà họ có thể đoán trước được các sức mạnh của các thiên thần và các ảnh hưởng tới các công việc của con người.

Các người Babylon Mới đã khảo cứu bầu trời rồi gán cho 5 ngôi sao lang thang (5 wandering stars) tên của 5 vị thần, đó là các hành tinh Mercury (Sao Thủy), Venus (Sao Kim), Mars (Sao Hỏa), Jupiter (Sao Mộc) và Saturn (Sao Thổ).

Các người Babylon Mới tin tưởng rằng khi một ngôi sao ở vào một vị trí đặc biệt nào đó trên bầu trời hay ở gần một ngôi sao khác, thì đó là điềm báo trước sẽ có chiến tranh hay nạn đói, hay sự chiến thắng của một nước với một nước khác.

Ngoài ra, kể từ năm 747 trước CN, các nhà thiên văn của triều đình Chaldean đã duy trì các quyển nhật ký, ghi chép các chuyển động của các thiên thể và các vụ nhật thực, nguyệt thực, cùng với các sự việc tầm thường như giá cả thay đổi, các mực nước sông, các trận bão tố và các nhiệt độ. Đây là khởi điểm của khoa Thiên Văn Học sau này của Thế Giới Hy Lạp – La Mã.

6/ Di sản của Xứ Mesopotamia.

Nền văn minh của xứ Mesopotamia chấm dứt vào năm 539 trước CN khi các người Ba Tư (the Persians) xâm chiếm kinh thành Babylon. Dần dần người Hy Lạp đã thay thế người Ba Tư, người La Mã (Romans) thay thế người Hy Lạp, người Ả Rập thay thế người La Mã. Lối chữ viết hình nêm (cuneiform) đã không còn được dùng tới nữa. Các thành phố cũ suy tàn, thay bằng các thành phố mới. Kinh đô Babylon đã bị thành phố Baghdad chiếm chỗ và người ta đã không biết gì về Babylon cho tới sau khi có các vụ khai quật khảo cổ sau năm 1900.

Di sản của xứ Mesopotamia còn được lưu lại theo nhiều cách. Một cách là từ cuốn Kinh Thánh Do Thái (the Hebrew Bible). Do bởi các người Do Thái thời xưa đã sinh sống trong miền Mesopotamia trước khi họ di cư sang miền đất Palestine và cũng do họ có ngôn ngữ gần giống như của các người Babylon Cổ, cho nên các chương đầu tiên của Kinh Thánh Do Thái thường ám chỉ tới xứ Mesopotamia.

Trong Sách Sáng Thế (the book of Genesis), Vua Nimrod đã cai trị các xứ Babel (Babylon), Erech (Uruk) và Akkad, và ông Abraham đã tới xứ Ur của người Chaldees. Tháp Babel (the Tower of Babel) được xây dựng từ gạch, đá và nhựa cây và đây là một  ziggurat của xứ Babylon Cổ.

Các người dân của xứ Mesopotamia và Do Thái Cổ đã kể lại trong Tập Thơ Anh Hùng Ca Gilgamesh về một trận hồng thủy và các quan niệm tôn giáo căn bản của đạo Do Thái Cổ đã liên hệ tới miền Mesopotamia Cổ. Như vậy, các người Do Thái Cổ là những nhà tư tưởng tôn giáo của thế giới cổ xưa và họ xử dụng các kiến thức của các người Mesopotamia.

Xứ Mesopotamia đã để lại các di sản về kỹ thuật và trí thức. Bánh xe đã được dùng vào việc chuyên chở, các cách tính căn số bậc hai, bậc ba đã là những công cụ toán học.

Ngày nay, chúng ta cũng thừa hưởng các luật pháp và khoa học tự nhiên của xứ Mesopotamia, ngoài ra còn phải kể tới nghệ thuật và kiến trúc... tất cả các di sản này đều từ thứ dân tộc tài giỏi đã sinh sống 5 ngàn năm về trước, tại miền đất bẳng phẳng và bùn lầy.

Phạm Văn Tuấn

Tài liệu tham khảo: Wikipedia. org.; Britannica Encyclopedia

(1) Epic of Gilgamesh

(2) Nineveh




No comments

Powered by Blogger.