Header Ads

Cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư - Ý nghĩa và Cách ứng phó


The Fourth Industrial Revolution - What it means and how to respond
Tác giả: Klaus Schwab - Chuyển ngữ: Trần Trung Tín

Ghi chú: Bài tiểu luận này đầu tiên đăng trên Foreign Affairs, ngày 12 tháng 12, 2015. Tác giả Klaus Schwab là Founder and Executive Chairman của tổ chức World Economic Forum.  Vào ngày 20-23 tháng 01, 2016, Hội Nghị Hàng Năm do World Economic Forum tổ chức tại Davos-Klosters, Switzerland đã đặt trọng tâm vào chủ đề: Cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư - The Fourth Industrial Revolution.

***

Chúng ta đang đứng trước một cuộc cách mạng kỹ thuật sẽ làm thay đổi tận gốc rễ phương cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau. Về mặt quy mô, phạm vi và mức độ phức tạp, thì sự biến đổi này khác hẳn với tất cả những gì mà nhân loại đã trải qua.  Chúng ta cũng không biết cuộc cách mạng này rồi sẽ đưa chúng ta đi về đâu, nhưng rõ ràng là: phản ứng của chúng ta phải được kết hợp và bao quát, từ những giới chức trong lãnh vực chính trị, khu vực tư nhân và công cộng cho đến giới học thuật và xã hội dân sự.

Cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Nhất sử dụng nước và năng lực hơi nước để cơ giới hóa việc sản xuất. Cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Nhì dùng điện lực để sản xuất hàng loạt. Cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Ba dùng điện tử và kỹ thuật tin học để tự động hóa việc sản xuất. Hiện nay, cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư đang được tạo dựng bên trên nền tảng của cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Ba, vốn được biết đến như là cuộc cách mạng kỹ thuật số (digital revolution), đã đang diễn ra kể từ hậu bán thế kỷ vừa qua.  Đặc tính của cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư này là sự kết hợp giữa các ngành kỹ thuật và đã làm mờ hẳn ranh giới phân chia giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học.

Cách Mạng Kỹ Nghệ Lần Thứ Từ Năm Đặc Điểm
I
1784
Hơi nước, nước, dụng cụ sản xuất cơ khí
(mechanical production equipment)
II
1870
Phân công lao động, điện, sản xuất hàng loat
III
1969
Điện tử, tin học (IT), sản xuất tự động
IV
?
Hệ thống mạng (Cyber-physical system)

Bảng tóm lược các cuộc cách mạng kỹ nghệ

Có ba lý do cho thấy tại sao sự biến đổi ngày nay không đơn thuần chỉ là sự nối dài của cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Ba. Mà đây chính là cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư và hoàn toàn khác vì những yếu tố đặc thù của nó: vận tốc, phạm vi, và tác động của hệ thống (system impact). Tốc độ của những khai phá kỹ thuật hiện tại là những gì chưa có trong lịch sử. Khi so sánh với những cuộc cách mạng kỹ nghệ trước đây, cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư này có một nhịp độ tiến triển cực nhanh, được tính theo hàm số mũ (exponential) thay vì tuyến tính (linear).  Hơn nữa, nó đã làm rúng động gần như hầu hết các ngành kỹ nghệ trong mọi quốc gia. Bề mặt và chiều sâu của những thay đổi này báo trước là sẽ có sự biến đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản trị và guồng máy công quyền.

Quả thực, tiềm năng của hàng tỉ người nối kết với nhau qua những thiết bị di động, với năng lực xử lý (processing power), khả năng lưu trữ dữ liệu và với cơ hội tiếp cận với kiến thức nhiều chưa từng có, sẽ thực là vô giới hạn.  Những tiềm năng này sẽ được gia tăng gấp bội bởi những khai phá kỹ thuật đang trỗi dậy trong những lãnh vực như thông minh nhân tạo (AI) (1), người máy (robotics), Internet của Mọi thứ (Internet of Things), xe tự điều khiển, 3-D printing (2), công nghệ nano (nanotechnology), công nghệ sinh học (biotechnology), khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử (quantum computing).  

Thông minh nhân tạo hiện đã có mặt quanh chúng ta, từ xe tự lái lấy và máy bay không người lái (drones) đến những phụ tá ảo (virtual assistants) và những nhu liệu thông dịch hay đầu tư.  Những năm gần đây, được thúc đẩy thêm bởi sự gia tăng theo hàm số mũ của năng lực tính toán và với những khối lượng dữ liệu khổng lồ có sẵn để khai thác, ngành thông minh nhân tạo đã có những tiến bộ ngoạn mục đi từ nhu liệu dùng để khám phá các loại thuốc mới cho đến những quy trình toán học (algorithm) dùng để dự đoán những quan tâm về văn hóa của chúng ta. Trong khi đó, công nghệ chế tạo bằng kỹ thuật số (digital fabrication technologies) (2) đang có những hoạt động tương tác với thế giới sinh học. Những kỹ sư, nhà vẽ kiểu, kiến trúc sư đều đang kết hợp lại từ những bản vẽ thiết kế bằng computers, chế tạo phụ trội (additive manufacturing) (2), kỹ thuật vật liệu, sinh học tổng hợp (synthetic biology) cho đến đi tiên phong trong việc cộng sinh giữa những vi sinh vật, cơ thể của chúng ta, sản phẩm tiêu thụ và ngay cả những cao ốc mà chúng ta đang sống tại đó.

Thử Thách và Cơ Hội

Cũng giống như những cuộc cách mạng trước đây, cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư này có tiềm năng nâng cao lợi tức thu nhập toàn cầu và cải thiện phẩm chất của đời sống mọi người trên toàn thế giới.  Tính cho đến nay, hưởng lợi nhiều nhất vẫn là những người tiêu thụ có đủ khả năng và điều kiện hội nhập vào thế giới kỹ thuật số; một kỹ thuật đã có thể làm cho các sản phẩm và dịch vụ gia tăng hiệu năng và đem lại niềm vui trong đời sống của chúng ta. Gọi một chiếc taxi, đặt mua vé máy bay, mua một sản phẩm, trả tiền hàng tháng, nghe nhạc, xem phim, hay ngay cả chơi game - đều có thể được thực hiện từ tầm xa.

Trong tương lai, ở mặt cung ứng, những cải tiến kỹ thuật cũng sẽ đưa đến những kỳ diệu, với hiệu quả và năng suất cao trong dài hạn. Giá thành của vận chuyển và thông tin sẽ giảm, việc tiếp vận (logistics) và những đường dây cung cấp toàn cầu sẽ hữu hiệu hơn, và phí tổn giao thương sẽ giảm thiểu, tất cả những điều này sẽ tạo ra những thị trường mới và kích thích sự tăng trưởng kinh tế.

Đồng thời, như các kinh tế gia Erik Brynjolfsson và Andrew McAfee đã chỉ cho thấy, cuộc cách mạng này còn sản sinh ra một sự bất bình đẳng to lớn hơn, đặc biệt là tiềm năng gây rối loạn thị trường lao động. Một khi sự tự động hóa thay thế sức lao động của toàn bộ một nền kinh tế, thì kết quả của việc công nhân bị máy móc thay thế sẽ làm cho sự cách biệt giữa lợi nhuận đầu tư và đồng lương trả cho nhân công trở nên trầm trọng thêm. Mặt khác, việc công nhân bị thay thế bởi kỹ thuật cũng có thể sẽ đưa đến tình trạng khác theo đó sẽ có nhiều công việc an toàn hơn và lương trả cao hơn.

Tại thời điểm này, giữa hai trường hợp công nhân bị mất việc và có nhiều công việc trả lương cao, chúng ta không thể tiên liệu được trường hợp nào sẽ xẩy ra, và đối chiếu với lịch sử, thì kết quả có lẽ sẽ là một sự trộn lẫn của cả hai. Tuy nhiên, tôi tin vào một điều, trong tương lai, yếu tố thực sự quan yếu trong sản xuất sẽ là tài năng - sẽ có giá trị nhiều hơn vốn đầu tư. Điều này sẽ làm cho thị trường lao động càng ngày càng bị phân đôi thành hai khu vực "thấp tài/thấp lương" (low-skill/low-pay) và "cao tài/cao lương" (high-skill/high-pay), và sẽ càng làm gia tăng những căng thẳng trong xã hội.

Trong cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư, không những sự bất bình đẳng (trong thu nhập) là mối ưu tư chính trong kinh tế mà đó còn là mối quan ngại lớn nhất trong xã hội.  Giới hưởng lợi nhiều nhất của những phát kiến mới thường là những thành phần có khả năng cung cấp vốn liếng ở mặt trí tuệ và tư bản - những nhà sáng tạo, những người nắm giữ cổ phần của công ty, và những nhà đầu tư. Điều đó giúp giải thích là tại sao khoảng cách giầu nghèo càng ngày càng gia tăng giữa những người lao động và những người có vốn liếng, trí tuệ hoặc tiền bạc đầu tư. Bởi đó, kỹ thuật là một trong những nguyên nhân chính gây ra việc đồng lương bị trì trệ, hoặc thậm chí đã không tăng mà còn bị giảm. Đối với đa số các quốc gia có lợi tức đầu người cao thì nhu cầu đòi hỏi công nhân có kỹ năng, tay nghề cao càng gia tăng; và càng ít có nhu cầu cần đến công nhân kém kiến thức và có kỹ năng, tay nghề thấp.  Kết quả sẽ là một thị trường lao động tập trung "sức hút" vào hai đầu, một đầu đòi hỏi tay nghề cao và đầu kia là tay nghề thấp như lao động chân tay; nhưng còn giới lưng chừng ở giữa, dở thầy, dở thợ, thì thị trường lao động không có nhu cầu cần đến. 

Điều này giúp giải thích tại sao có nhiều công nhân bị thất vọng và sợ rằng đồng lương thu nhập của họ và của con họ sẽ tiếp tục bị trì trệ. Tương tự, đó cũng là lý do tại sao giới trung lưu trên thế giới càng ngày càng dễ có tâm trạng bất mãn và cảm thấy họ bị đối xử bất công. Trong một nền kinh tế khi kẻ thắng lấy hết (winner-takes-all), thì sót lại sẽ chẳng còn gì mấy cho giới trung lưu và đó sẽ là công thức để tạo ra những bất ổn và thất bại trong xã hội dân chủ.

Sự bất mãn này càng dễ bị gia tăng vì sự lan rộng của ngành kỹ thuật số và sự luân lưu nhanh chóng các tin tức qua các mạng truyền thông xã hội (social media). Hiện nay có hơn 30% dân số toàn cầu sử dụng các mạng truyền thông xã hội để nối kết với nhau, để học hỏi cùng là chia sẻ thông tin. Trong một thế giới lý tưởng, những hoạt động tương tác này sẽ tạo ra cơ hội để có thể hiểu biết cùng là những nối kết với các nền văn hóa khác.  Tuy nhiên, khi từ một chỗ kém hơn, nghèo hơn và nhìn sang chỗ khác tốt hơn, giầu hơn để tìm hiểu, thì cũng sẽ dễ đi đến chỗ sẽ có những mong đợi không thực tế về sự thành công cho cá nhân hay nhóm. Đồng thời các mạng truyền thông xã hội này cũng dễ tạo cơ hội tốt cho việc truyền bá các ý tưởng và ý thức hệ cực đoan.

Ảnh hưởng trên giới kinh doanh (The impact on business)

Chủ đề chính yếu trong những cuộc nói chuyện của tôi với những vị CEO và những giới chức lãnh đạo kinh doanh quay quanh việc thật khó hiểu thấu hoặc tiên liệu được gia tốc của cải tiến và vận tốc của sự đột biến (disruption) (3) và chính những điều đó đã tạo thành ngọn nguồn của những ngạc nhiên liên tục, ngay cả đối với những người có quen biết rộng (well connected) và được cập nhật rất kỹ (well informed). Thực vậy, đối với tất cả các kỹ nghệ, quả thực những kỹ thuật trọng yếu trong cuộc Cách mạng Kỹ thuật thứ Tư đang tạo ra một ảnh hưởng sâu rộng trong kinh doanh.

Về phía cung cấp, nhiều ngành trong kỹ nghệ đang nhìn thấy sự xuất hiện của những kỹ thuật mới, và những kỹ thuật này sẽ tạo ra những phương cách hoàn toàn mới trong việc phục vụ các nhu cầu hiện có và gây xáo trộn sâu rộng đến những đường dây cung cấp (chains) đang hoạt động. Những đột biến (3) này tràn tới từ những người cạnh tranh rất nhanh nhẹn và sáng tạo. Được tiếp cận với nền tảng kỹ thuật số toàn cầu để nghiên cứu, phát triển, tiếp thị, buôn bán, và phân phối, họ có thể nhanh chóng đánh bại những đối thủ đã thành danh và đang có chỗ đứng vững chắc trong ngành bằng cách nâng cao phẩm chất, gia tăng tốc độ sản xuất hoặc giảm giá thành của sản phẩm mới ra. 

Về phía tiêu thụ cũng có những thay đổi quan trọng, sự minh bạch, cùng sự tham gia của người tiêu thụ và những cung cách ứng xử mới của giới tiêu thụ (ngày càng tùy thuộc vào dữ liệu và những mạng di động) đã càng ngày càng gia tăng, và những điều này đã bắt buộc các công ty phải đáp ứng thích nghi bằng những thay đổi cách thiết kế, tiếp thị, và giao hàng và dịch vụ.

Khuynh hướng chính yếu là việc phát triển những nền tảng vận hành được bởi kỹ thuật (technology-enabled platforms) bao gồm cả "cung" và "cầu" nhằm gây ra những chấn động tới  những cơ cấu kỹ nghệ hiện hành, như đã thấy trong nền kinh tế "chia sẻ" (sharing) hoặc "theo yêu cầu" (on demand). Những nền tảng kỹ thuật này, nhờ vào smartphone cho nên khá dễ sử dụng, có thể tụ hội mọi người, tài sản, và dữ liệu vào một mối - và vì vậy đã tạo ra những cách thức hoàn toàn mới trong việc tiêu thụ sản phẩm và cung ứng dịch vụ. Thêm nữa, chúng còn hạ thấp các rào cản các giới kinh doanh và cá nhân để tạo ra của cải, thay đổi hẳn môi trường làm việc và riêng tư của người công nhân. Những kinh doanh dựa trên nền tảng mới này đang bội tăng và lan nhanh sang nhiều lãnh vực dịch vụ, tính từ giặt quần áo sang đến mua sắm, từ việc vặt trong nhà đến chỗ đậu xe, từ đấm bóp cho đến du lịch.

Nói một cách tổng quát, cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư đã có bốn ảnh hưởng chính trên giới kinh doanh: kỳ vọng của khách hàng, cải tiến sản phẩm, cộng tác sáng kiến (collaborative innovation), và khuôn mẫu tổ chức.  Dù là giới tiêu thụ hay kinh doanh, thì khách hàng càng ngày càng trở nên trung tâm điểm của nền kinh tế, và đó chính là lý do cần phải cải thiện cách phục vụ khách hàng. Hơn thế nữa, phẩm chất của những sản phẩm hữu hình và những dịch vụ hiện nay đều có thể được nâng cao bằng những khả năng kỹ thuật số (digital capabilities) để làm tăng giá trị của chúng. Những kỹ thuật mới này làm các sản phẩm trở nên dẻo dai và bền bỉ hơn, trong khi dữ liệu và phương pháp phân tích (analytics) đang biến đổi phương cách bảo trì những sản phẩm này. Trong khi đó, một thế giới, với những kinh nghiệm của khách hàng, với những dịch vụ đặt nền móng trên dữ liệu, và với hiệu suất của các tài sản dựa trên phân tích, sẽ có nhu cầu đòi hỏi những cung cách hợp tác mới mẻ, nhất là dưới sức ép tạo ra bởi tốc độ của cải tiến và đột biến (3) đang xẩy ra. Sau cùng, sự xuất hiện của những nền tảng toàn cầu này và những mô hình kinh doanh mới có nghĩa là sẽ phải có sự suy nghĩ, đánh giá lại về tài năng, văn hóa và khuôn mẫu tổ chức.

Nói chung, sự thay đổi từ kỹ thuật số đơn giản (Cách mạng Kỹ nghệ thứ Ba) tiến sang những phát kiến mới dựa trên những kết hợp của nhiều ngành nghề kỹ thuật là điều không thể tránh khỏi. Và chính điều này đã bắt buộc các công ty phải tái thẩm định lề lối kinh doanh của họ. Tuy nhiên, điểm căn bản mấu chốt vẫn như cũ: những nhà lãnh đạo trong giới kinh doanh và những nhà điều hành cấp cao cần phải hiểu môi trường đang thay đổi của họ, phải đặt câu hỏi thách đố những giả định của nhóm điều hành, và liên tục nỗ lực sáng tạo.

Ảnh hưởng trên nhà cầm quyền (The impact on government)

Một khi những thế giới vật lý, kỹ thuật số, và sinh học tiếp tục quy về một mối, những kỹ thuật và nền tảng mới sẽ làm cho người dân được dễ dàng hơn khi tham gia vào sinh hoạt, khi nói lên ý kiến, hoặc phối hợp các cố gắng của họ, và ngay cả có thể tránh né được sự kiểm soát của giới hữu quyền. Đồng thời, các chính quyền cũng nắm được sức mạnh của kỹ thuật mới để gia tăng kiểm soát dân chúng qua những hệ thống giám sát sâu rộng và tăng cường khả năng kiểm soát hạ tầng cơ sở của kỹ thuật số. Tuy nhiên, chính quyền càng ngày càng phải trực diện với những áp lực để thay đổi phương cách của họ đối với sự tham dự của công chúng (public engagement), và việc tạo lập chính sách, một khi vai trò trung ương của chính quyền bị giảm đi do có nhiều nguồn lực cạnh tranh mới và sự tái phân phối và tản quyền xuống địa phương đã có thể thực hiện được nhờ vào những kỹ thuật mới,.

Cuối cùng, các hệ thống và giới chức của chính quyền có thể sống còn được hay không sẽ tùy thuộc vào khả năng thích nghi của họ đối với những đổi mới này. Nếu chứng tỏ được có khả năng đón nhận được một thế giới đầy những thay đổi đột ngột, đặt những cơ cấu hoạt động dưới sự minh bạch và hiệu quả, và những điều đó sẽ cho phép họ duy trì được lợi thế cạnh tranh, thì họ sẽ tiếp tục tồn tại. Nếu như không thể thay đổi, họ sẽ phải đương đầu với nhiều trở ngại.

Điều này sẽ đặc biệt đúng trong lãnh vực luật lệ. Những hệ thống hiện hành với những chính sách công và lấy quyết định đã theo nhịp tiến hóa của thời Cách mạng Kỹ nghệ thứ Hai, khi những người ra quyết định có thời giờ để nghiên cứu vấn đề và đưa ra một đáp án thích nghi hoặc một khung pháp lý thích hợp. Cả một tiến trình này đã được thiết kế một cách máy móc và theo lối tuyến tính, giữ đúng trình tự cứng nhắc "từ trên xuống dưới" (top down approach).

Nhưng một phương cách như vậy hoàn toàn không còn thích nghi nữa. Trong cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư, với một nhịp độ thay đổi quá nhanh và những ảnh hưởng quá sâu rộng, những nhà lập pháp và cơ quan điều hành đang bị thử thách ở một mức độ chưa từng có và hầu như là đa số không có khả năng để đối phó.

Và rồi bằng cách nào họ có thể bảo toàn được quyền lợi của giới tiêu thụ và của công chúng trong khi vẫn tiếp tục hỗ trợ những đổi mới và phát triển kỹ thuật? Chỉ có bằng cách áp dụng lề lối quản trị nhanh chóng uyển chuyển, tương tự như khu vực tư nhân càng ngày càng phải có những đối sách nhanh chóng khi phát triển nhu liệu và những hoạt động kinh doanh, nói một cách tổng quát. Điều này có nghĩa là các cơ quan kiểm soát phải liên tục thích nghi với một môi trường mới thay đổi nhanh chóng, phải tái tạo lại chính họ để có thể thực sự hiểu được họ đang kiểm soát, đang điều hành cái gì. Để làm được vậy, chính quyền và các cơ quan kiểm soát sẽ cần phải cộng tác mật thiết với giới kinh doanh và xã hội dân sự.

Cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư này cũng sẽ tác động sâu xa đến cốt lõi của nền an ninh quốc gia và quốc tế, ảnh hưởng đến cả xác suất xảy ra lẫn cả căn nguyên của cuộc xung đột. Lịch sử của chiến tranh và an ninh quốc tế là lịch sử của đổi mới kỹ thuật, và ngày hôm nay đó cũng không là một ngoại lệ. Ở thời đại mới này, tự bản chất, những xung đột giữa các quốc gia càng ngày càng bị "lai giống" (hybrid), trong đó bao gồm cả những kỹ thuật chiến đấu truyền thống và những thành phần có liên quan tới những tác nhân phi quốc gia (nonstate actors). Sự khác biệt giữa chiến tranh và hòa bình, giữa chiến binh và không chiến binh và ngay cả bạo lực và không bạo lực (như chiến tranh mạng, cyber warfare) đang bị mờ dần.

Khi tiến trình này đang diễn ra và những kỹ thuật mới như là vũ khí tự điều khiển hoặc vũ khí sinh học trở nên dễ sử dụng hơn, thì những cá nhân và các nhóm nhỏ dễ dàng kết hợp lại với nhau và họ sẽ có khả năng gây ra một tổn hại lớn. Nhược điểm dễ bị thương tổn này sẽ tạo ra sự sợ hãi mới cho mọi người. Nhưng cùng một lúc, sự tiến bộ trong kỹ thuật cũng tạo ra tiềm năng để làm giảm đi tỉ lệ hoặc sự tác hại của bạo lực, qua việc xây dựng phát triển những mô hình bảo vệ mới hoặc nâng cao mức độ chính xác khi triệt hạ mục tiêu.

Ảnh hưởng trên con người (The impact on people)

Cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư không những sẽ thay đổi những gì chúng ta làm mà còn thay đổi chính chúng ta nữa. Nó sẽ ảnh hưởng đến bản sắc của chúng ta và tất cả mọi vấn đề liên quan đến bản sắc này: ý thức về riêng tư, quan niệm về quyền sở hữu, cung cách tiêu thụ, thời gian mà chúng ta cống hiến cho việc làm và dành cho giải trí, và cách thức phát triển nghề nghiệp, trau giồi kỹ năng, gặp gỡ mọi người, và nuôi dưỡng những mối quan hệ của chúng ta. Cuộc cách mạng kỹ nghệ này đã đang thay đổi sức khỏe của chúng ta và dẫn đến một sắc thái riêng đã được "định lượng" trước, và, có thể nhanh hơn chúng ta nghĩ, nó sẽ dẫn đến việc "cải tiến con người" (human augmentation) (4). Danh sách này thì vô tận và chỉ bị giới hạn bởi sự tưởng tượng của chúng ta.

Là một người rất nhiệt thành và đón nhận kỹ thuật rất sớm, nhưng đôi khi tôi phân vân tự hỏi không biết một sự kết hợp không ngưng nghỉ với kỹ thuật như vậy liệu có sẽ làm giảm đi một số năng lực tinh túy của con người như lòng trắc ẩn và sự cộng tác hay không.  Mối liên hệ "gắn bó" của chúng ta với smart phone là một trường hợp điển hình. Sự nối kết liên tục như vậy có thể làm chúng ta mất đi một phần gia sản quan trọng trong đời sống: đó là khoảng thời gian ngưng lại (pause), nhìn lại chính mình (reflect), và tham gia vào cuộc đàm thoại có ý nghĩa.

Một trong những thách đố to lớn nhất mà những công nghệ tin học mới đặt ra cho chúng ta chính là sự riêng tư của cá nhân. Theo bản năng, chúng ta hiểu được tại sao điều này quan trọng, nhưng việc theo dõi và chia sẻ thông tin về chúng ta là một phần không thể thiếu trong sự kết nối mới mẻ này.  Càng ngày càng có nhiều tranh luận về những vấn đề căn bản chẳng hạn như những tác động vào đời sống nội tâm của chúng ta sẽ như thế nào một khi chúng ta bị mất đi sự kiểm soát dữ liệu của chúng ta. Tương tự, những cuộc cách mạng đang xẩy ra trong các ngành công nghệ sinh học và thông minh nhân tạo (AI) (1) đang định nghĩa lại thế nào là con người qua việc nâng cao tuổi thọ, sức khỏe, nhận thức, và khả năng, và như vậy bắt buộc chúng ta sẽ phải xác định lại lằn ranh giữa luân lý và đạo đức.

Định hình Tương lai (Shaping the future)

Không phải kỹ thuật hoặc những đột biến (3) đi kèm là những ngoại lực mà con người không kiểm soát được.  Bằng vào những quyết định mà chúng ta phải lấy hàng ngày, trong tư cách của người công dân, người tiêu thụ và nhà đầu tư, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm trong việc hướng dẫn sự tiến hóa của cuộc cách mạng này. Vì thế, chúng ta nên nắm lấy cơ hội và quyền lực mà chúng ta có để định hình cuộc Cách mạng Kỹ nghệ Thứ Tư và hướng nó tới một tương lai trong đó thể hiện được những mục tiêu và giá trị chung của chúng ta.

Tuy nhiên, để thực hiện được điều trên, chúng ta phải xây dựng được một cái nhìn bao quát và được toàn cầu chia sẻ về việc kỹ thuật sẽ ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta ra làm sao và sẽ định hình lại môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa và con người như thế nào. Chưa có thời đại nào lại có một hứa hẹn to lớn và cũng tiềm tàng nhiều nguy hiểm đến như vậy. Tuy nhiên, hiện nay những người có trách nhiệm quyết định thường bị đóng khung theo lối suy nghĩ truyền thống và tuyến tính (từng bước một theo đường thẳng), hoặc họ đã phải quá chú tâm để giải quyết những cuộc khủng hoảng khẩn thiết khác. Với những trở ngại trên, họ khó có thể suy nghĩ một cách chiến lược về những nguồn lực của đột biến (3) và sáng kiến mới đang định hình tương lai của chúng ta.

Cuối cùng, vẫn là con người và các giá trị. Chúng ta cần định hình một tương lai làm lợi cho chúng ta bằng cách đặt con người lên ưu tiên số một và trao quyền cho họ. Trong một khuôn mẫu bi quan và mất nhân tính nhất, cuộc Cách mạng Kỹ nghệ lần thứ Tư quả thực có thể có tiềm năng để "người máy hóa" (robotize) nhân loại và vì thế sẽ lấy đi mất con tim và tâm hồn của chúng ta. Nhưng như một bổ sung (complement) cho những phần tốt đẹp nhất của bản chất con người - sáng tạo, cảm thông, quản trị - cuộc Cách mạng Kỹ nghệ thứ Tư cũng có thể đưa nhân loại vượt lên để đạt được một ý thức mới về tập thể và đạo đức trên nền tảng của một nhận thức chung về định mạng. Điều cần thiết là tất cả chúng ta phải bảo đảm phần “bổ sung” này sẽ chiếm ưu thế.



Chú thích của người dịch:

(1) AI: Artificial Intelligence. Ngành thông minh nhân tạo. Có nơi dịch AI là “trí tuệ nhân tạo”. Xét ra, thì "trí tuệ" trong Việt ngữ có lẽ gần với "intellect" trong Anh ngữ hơn là "intelligence". Mặc dù có nhiều diệu dụng, nhưng theo thiển ý, cũng còn phải lâu nữa thì AI mới đạt tới mức "tuệ" được.


(2) Digital fabrication technologies:  Công nghệ chế tạo bằng kỹ thuật số.  Theo học viện Institute for Manufacturing của Đại học Cambridge, Anh, digital fabrication gồm luôn các phương pháp được gọi tên là "additive manufacturing" or "3D printing" được xem là nền tảng của một cuộc cách mạng trong chế tạo (manufacturing revolution).  Liên quan đến nhiều kỹ thuật công nghệ, digital fabrication có thể cung cấp những sản xuất theo nhu cầu (on-demand), cá nhân hóa (mass personalisation) những yêu cầu đó theo từng địa phương, thay vì sản xuất hàng loạt như hiện nay. Những kỹ thuật này có tiềm năng làm "disrupt" các tổ chức sản xuất khác.

(3) Disruption: Trong khuôn khổ kỹ thuật hay kỹ nghệ, từ ngữ disruption không hoàn toàn chỉ mang ý nghĩa là phá vỡ, đập vỡ, làm sụp đổ như thường dùng.
Như disruptive innovation là sáng kiến tạo ra thị trường mới và giá trị mới; về lâu về dài sẽ thay thế các thị trường và giá trị hiện có.

Điển hình:
    a. Máy tính cá nhân (PC) đã thay thế máy đánh chữ và đã thay đổi cách chúng ta làm việc và thông tin. Smartphone cũng tương tự.
    b. Social networking, thí dụ như Facebook, Twitter đã ảnh hưởng quan trọng trong thông tin, đã "disrupting" điện thoại, email, instant messaging and event planning.
Harvard Business School professor Clayton M. Christensen là người đã nghĩ ra từ "disruptive technology" từ 1995.

(4) Human augmentation: “Cải tiến con người". Lãnh vực này, còn được biết đến qua tên Human 2.0, đặt trọng tâm vào việc tạo ra nhận thức và cải thiện thể chất như là phần không thể thiếu trong cơ thể con người. Thí dụ như dùng hệ thống điều khiển để làm chân tay giả với những đặc điểm có khi còn vượt quá khả năng hoạt động bình thường của con người.

Powered by Blogger.