Header Ads

Hình Phạt Ngày Xưa ở Nước Ta


Bùi Quý Chiến

Ở nước ta hình phạt xưa nhất được ghi chép trong sử sách là xâm chữ vào mặt (hình kình) và xẻo mũi (hình tị).

Đời nhà Triệu, năm 112 TTL, Ai Vương nối ngôi cha, mẹ là Cù Thị được tôn làm thái hậu.
 
Vì vua còn nhỏ tuổi nên thừa tướng Lữ Gia và thái hậu phụ chính.

Vua nhà Hán sai An Quốc Thiếu Qúy sang dụ mẹ con Ai Vương vào chầu như một chư hầu.

Cù Thị nguyên là người Hán và là tình nhân của Thiếu Qúy khi trước nên nhân dịp này tư thông với nhau.

Vụ này gây giận dữ trong triều và ngoài dân gian.

Sợ nguy biến, Cù Thị nhờ Thiếu Qúy đem biểu về xin vua Hán cho mẹ con sang chầu và xóa bỏ biên giới.
Vua Hán chấp thuận, cấp ấn bạc cho Ai Vương và Lữ Gia, bắt áp dụng luật pháp của nhà Hán và hủy bỏ hình phạt xâm chữ vào mặt (hình kình) và xẻo mũi (hình tị) của nhà Triệu (1).

Từ khước nhận ấn bạc của nhà Hán, Lữ Gia giết Ai Vương và Cù Thị rồi lập người con trưởng của Minh Vương lên làm vua.

Nhằm thực hiện mộng bành trướng, năm 111 TTL, nhà Hán sai Lộ Bác Đức sang xâm chiếm và cai trị nước ta.

Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, luật pháp áp dụng ở nước ta tất nhiên là luật của kẻ thống trị.

Cho tới thời tự chủ, Đinh Tiên Hoàng đặt vạc lớn và chuồng nuôi cọp ở sân triều đinh như một cách răn đe những kẻ gian ác.

Sang tới đời Lê Đại Hành mới có luật lệ pháp định. Những luật lệ này đã thất truyền.

Hình Thư

Hình luật ngày xưa gọi là hình thư.

Vua bổ nhiệm một hoặc vài quan chức soạn thảo hình thư gồm những điều khoản ngăn cấm và trừng phạt những kẻ phạm tội. Vua duyệt lại rồi xuống chiếu ban hành.

Đời Lý Thánh Tông (1054-1072) hình thư gồm 3 quyển được ban hành. Theo Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú, giặc Minh đã đem 3 quyển này về Kim lăng (kinh đô nhà Minh) trong cuộc Bắc thuộc lần thứ tư (1414-1427).

Đời Trần Thái Tông (1225-1293) một quyển hình thư được ban hành. Cũng theo Phan Huy Chú, quyển này đã bị giặc Minh đem về Kim lăng.

Đời Lê Thái Tổ (1428-1433) có ban hành các hình phạt gồm 5 loại:

  1. Đánh roi (xuy) có 5 bậc từ 10 tới 50 roi.
  2. Đánh gậy (trượng) có 5 bậc từ 60 tới 100 gậy.
  3. Tù khổ sai (đồ) có 3 bậc: làm dịch đinh, làm lính nuôi voi, làm lính đồn điền.
  4. Bị đày (lưu) có 3 bậc: đày đi cận châu (Nghệ an), đày đi viễn châu (Bố chính), đày đi ngoại châu (Tân bình giáp ranh với Chiêm thành) 
  5. Tội chết (tử) có 3 bậc: bị thắt cổ, bị chém đầu, bị xẻo thịt cho đến chết (lăng trì).
Thái Tổ cũng ban hành 14 điều về ruộng đất trong các trường hợp thừa kế, cầm thế, mua bán. Ai vi phạm sẽ bị phạt roi hoặc trượng.

Tội Danh và Hình Phạt 

1. Tội bị đánh roi.

Người phạm vào một trong 14 điều quy định về điền sản nói trên bị phạt 50 roi hoặc 80 trượng.

2. Tội bị đánh trượng và xâm chữ vào mặt.
  • Bán hoàng nam làm nô bộc bị phạt 100 trượng và bị xâm 20 chữ vào mặt.
  • Trộm trâu, mặc dù đã trả lại trâu cho nạn nhân, vẫn bị phạt 100 trượng.
  • Cướp bằng bạo lực bị phạt 100 trượng.
  • Phần lớn hình phạt đánh trượng là phần phạt phụ kèm theo phần phạt chính về các tội đồ và lưu (xem tội đồ và lưu).
Sử có chép 2 vụ xử phạt đánh trượng cho tới chết.
  • Năm 1011 Lý Thái Tổ sai Lý Nhân Nghĩa và Đào Khánh Vân sang Tống biếu sản vật địa phương. Khánh Vân trốn ở lại Tống, bị người Tống bắt và trao trả. Vua sai đánh trượng Khánh Vân cho tới chết.
  • Năm 1296 Nguyễn Hưng được phong tước thượng phẩm nhưng phạm tội đánh bạc, bị Trần Anh Tông phạt đánh trượng cho tới chết (trong khi ấy người dân đánh bạc chỉ bị chặt 3 đốt tay).
Đánh trượng nhẹ hơn tội đồ và lưu nhưng bị đánh trượng cho tới chết thì đau đớn và khủng khiếp không kém tội lăng trì.

3. Bị phạt tiền.

  • Trốn tránh nghĩa vụ lao dịch bị phạt 4 quan tiền và bị xâm 4 chữ sau gáy . Được miễn tội nếu thuê người khác lao dịch thay mình.
  • Quan xử kiện không đúng luật.
  • Dân khiếu kiện vu vơ không chứng cớ.

 4. Bị chặt tay.

  • văn khế giả bị chặt một đốt tay bên trái.
  • Đánh bạc bị chặt 3 đốt tay.
  • Chơi cờ bị chặt 1 đốt.
Năm 1721 chúa Trịnh Cương ban hành luật hủy bỏ hình phạt chặt tay nhưng thay thế bằng hình phạt khác như sau:
  • Bị chặt 2 ngón tay và đày đi cận châu được đổi sang 6 năm tù khổ sai.
  • Bị chặt 1 tay và đày đi ngoại châu được đổi sang 12 năm tù khổ sai.
  • Bị chặt 2 tay và đày đi viễn châu được đổi sang chung thân khổ sai.
Tuy nhiên những tội về trộm cướp vẫn giữ nguyên không đổi. Như vậy cho tới thế kỷ 18, các tội trộm cướp vẫn còn bị chặt tay.

 5- Bị tù khổ sai (đồ).

  • Giết trâu lậu (trái phép) bị phạt 80 trượng và một số năm khổ sai tùy trường hợp.
  • Dùng binh khí tranh nhau ruộng ao gây án mạng bị phạt 80 trượng và tù khổ sai, ruộng ao trả cho nạn nhân.
  • Đánh chết người bị phạt 100 trượng, xâm 50 chữ vào mặt và tù khổ sai.
  • Nhận hối lộ khi thu thuế bị phạt 100 trượng và tù khổ sai.
  • Dùng tù nhân làm việc riêng bị phạt 80 trượng và 1 năm khổ sai. 
  • Và những tội khác, sử không chép hết.

 6- Bị đày (lưu).

  • Lính đào ngũ bị đày đi cận châu hoặc viễn châu hoặc ngoại châu.
  • Cướp và gây thương tích cho nạn nhân.
  • Có thai nhưng buông tuồng không kiêng cữ, xem hát  vui đùa với chúng bạn.
  • Quan chức xao lãng nhiệm vụ.
  • Và những tội khác, sử không chép hết.

 7- Bị tội chết (tử) .
                 
  • Âm mưu phản quốc.
  • Âm mưu đại nghịch (giết vua, giết cha).
  • Giết người cướp của.
  • Đang có tang chồng mà ngoại tình hoặc lấy chồng khác, cả hai gian phu dâm phụ và vợ chồng mới lấy nhau đều bị tử hình.
  • Chủ nhà giết gian phu ngay trong đêm được miễn tội . 

Những Cách Xử Tử Khác

Ngoài cách thắt cổ, chém đầu và xẻo thịt, sử sách còn chép vài cách xử tử khác.

Đời Lý Nhân Tông, năm 1109 bọn phản nghịch Tô Hậu và Kỷ Sùng bị xử tử. Trước khi bị lăng trì, tội nhân bị "cho lên ngựa gỗ" nghĩa là bị căng thân bằng đinh trên tấm ván và đem bêu ngoài chợ, sau đó mới bị xẻo thịt cho tới chết.

Năm 1530 Lê Ý phò vua Lê chống Mạc Đăng Dung bị Đăng Dung bắt và bị xé xác bằng xe ngựa.

Năm 1802 nữ tướng Bùi Thị Xuân của Tây sơn bị Nguyễn Ánh cho voi giày. Giáo sĩ Bissachère chứng kiến và thuật lại: "Lính thét quỳ xuống nhưng bà xăm xăm bước tới, voi lùi lại, lính phải cầm giáo thọc vào đùi voi, bấy giờ voi mới dùng vòi quặp bà tung lên trời." 

Trường hợp tội nhân là người tôn thất hoặc đại thần, vua cho tự xử bằng thuốc độc hoặc tự thắt cổ chết.

Chuộc Tội 

Những người trên 70 và dưới 15 tuổi hoặc có họ với vua (để tang nhau từ 9 tháng trở lên) nếu phạm từ tội lưu trở xuống được chuộc tội bằng tiền. Tuy nhiên không được chuộc nếu phạm một trong 10 tội đại ác:
  1. Âm mưu phản quốc
  2. Âm mưu giết vua hoặc giết cha
  3. Âm mưu phản bội
  4. Hung ác bạo nghịch
  5. Bất đạo đức 
  6. Đại bất kính
  7. Bất hiếu với cha mẹ
  8. Không hòa thuận với anh em
  9. Bất nghĩa
  10. Loạn luân
Đời nhà Hồ, tội nhân được chuộc tội bằng ruộng.

Ân giảm

Những người trên 80 và dưới 10 tuổi có khuyết tật được dần dần giảm nhẹ hình phạt. 

Con cháu chịu đánh roi thay cho ông bà cha mẹ, số roi bị phạt được giảm xuống một bậc.

Tội nhân có thể được xét ân giảm nếu thuộc một trong 8 trường hợp gọi là "bát nghị" như sau:
  1. Nghị thân = có họ với vua.
  2. Nghị cố = quen biết từ lâu với vua và được vua tin yêu.
  3. Nghị hiền = bậc hiền đức đáng làm khuôn mẫu.
  4. Nghị năng = bậc nổi tiếng tài năng về quân sự hoặc chính trị.
  5. Nghị công = có công lao về quân sự hoặc mở mang bờ cõi.
  6. Nghị quý = quan cao chức trọng từ tam phẩm trở lên.
  7. Nghị cần = người siêng năng thi hành nhiệm vụ trong và ngoài nước.
  8. Nghị tân = con cháu các triều vua trước đang giữ việc thờ cúng các vua triều trước, được coi như khách của triều này.
Con cháu của những người thuộc bát nghị cũng được xét ân giảm.

Ngự sử đài của triều đình có nhiệm vụ cứu xét ân giảm theo tiêu chuẩn bát nghị sau đó trình lên vua duyệt để thi hành.

Thế Kỷ 17 Nước Ta Đã Có Băng Đảng Bí Mật Gây Tội Ác

Xã Đa giá thượng thuộc huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, xứ Thanh Hoa (nay thuộc phủ Yên Khánh, Ninh Bình) nằm trên đường độc đạo xuyên qua núi rừng hiểm trở.

Từ xã trưởng xuống dân đinh toa rập nhau lập điếm canh kiểm soát người qua lại.

Vì đường xa vắng vẻ nên xã này thuận tiện cho khách nghỉ chân và ngủ trọ. Khách trọ nếu có nhiều tiền hoặc vàng bạc, ban đêm bị người trong xã giết chết và quăng xác xuống khe núi phi tang.

Tội ác đã 20 năm, tới năm 1694 mới bị phát giác. Một người vợ của nạn nhân nhờ có nhan sắc nên được tên xã trường tha chết và lấy làm vợ lẽ. Người phụ nữ này đã tìm cách tố cáo với triều đình. Chúa Trịnh sai Thạc quận công Lê Hải điều tra.

Xã bị vây kín, Lê Hải khám xét từng nhà để thu thập tang chứng. Đống xương người dưới khe núi là tang chứng hiển nhiên và khủng khiếp.

Đồ đảng gồm 290 tên bị bắt giam. Xã trưởng và những kẻ trực tiếp gây tội ác gồm 52 người bị chém và bêu đầu. Số còn lại bị chặt một ngón tay và bị đày đi viễn châu.

Từ đó xã Đa giá thượng bị xóa tên.

Bùi Quý Chiến



Cước chú

 (1)- Triệu Đà áp dụng luật pháp nhà Tần gồm có 5 hình phạt: hình kình, hình tị, phi (chặt chân), cung (thiến) và đại tích (chém đầu). 
Tội bị thiến nặng hơn chặt chân vì bị thiến thì tuyệt tự; không có con nối dõi tông đường là đại bất hiếu.

Tham khảo

 - Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên.
 - Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn. 
 - Việt sử lược của khuyết danh.
 - Anh thư nước Việt của Phương Lan.


No comments

Powered by Blogger.